21 tháng 5, 2011

KỶ NIỆM 121 NĂM NGÀY SINH CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VĨ ĐẠI VÀ 100 NĂM NGÀY BÁC HỒ RA ĐI TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC!

ĐỀ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN
KỶ NIỆM 100 NĂM NGÀY BÁC HỒ RA ĐI TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC (05/6/1911 - 05/6/2011) GẮN VỚI KỶ NIỆM 121 NĂM NGÀY SINH CỦA NGƯỜI (19/5/1890 - 19/5/2011)
I. Những nhân tố ảnh hưởng đến quyết định ra đi tìm đường cứu nước của người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành.
1. Phong trào yêu nước chống Pháp diễn ra sôi nổi nhưng đều thất bại
Những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp bắt tay vào khai thác thuộc địa lần thứ nhất. Xã hội Việt Nam bắt đầu có những biến chuyển và phân hoá. Sự xâm nhập của chủ nghĩa tư bản Pháp đã làm nảy sinh trong xã hội Việt Nam hai giai cấp mới: giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Cuộc vận động cải cách của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu ở Trung Quốc cũng có ảnh hưởng lớn đến Việt Nam. Các phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân ta diễn ra đa dạng, sôi nổi: phong trào có khuynh hướng dân chủ tư sản Đông Du, Đông kinh Nghĩa Thục, Duy Tân, Việt Nam Quang Phục Hội; phong trào chống sưu thuế của nông dân ở Trung kỳ phong trào đánh Pháp như: vụ đầu độc binh lính Pháp ở Hà Nội, cuộc khởi nghĩa của nghĩa quân Yên Thế…
Các phong trào yêu nước chống Pháp trên đều thất bại. Nguyên nhân sâu xa là do thiếu đường lối chính trị đúng đắn, khoa học, thiếu sự lãnh đạo của một giai cấp tiên tiến. Giai cấp phong kiến, có vai trò tiến bộ nhất định trong lịch sử đã trở thành giai cấp phản động, bán nước, tay sai cho đế quốc. Giai cấp tư sản mới ra đời, còn non yếu với lực lượng kinh tế phụ thuộc và khuynh hướng chính trị cải lương, không có khả năng lãnh đạo cuộc đấu tranh chống đế quốc và phong kiến để giành độc lập tự do. Giai cấp nông dân và tiểu tư sản khao khát độc lập, tự do, hăng hái chống đế quốc và phong kiến, nhưng không thể vạch ra con đường giải phóng đúng đắn và không thể đóng vai trò lãnh đạo cách mạng. Cách mạng Việt Nam đứng trước cuộc khủng hoảng trầm trọng về đường lối cứu nước.
Nguyễn Tất Thành rất khâm phục tinh thần yêu nước của các sĩ phu, văn thân, chí sĩ xả thân vì nước, nhưng Người không tán thành đường lối cứu nước của các bậc tiền bối. Tư tưởng yêu nước của Nguyễn Tất Thành tuy lúc đó chưa gặp chủ nghĩa xã hội, nhưng đã thể hiện tầm vóc vượt trước quan điểm cứu nước đương thời. Người cho rằng, chủ trương của cụ Phan Chu Trinh yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương chẳng khác gì “đến xin giặc rủ lòng thương”; chủ trương của cụ Phan Bội Châu nhờ Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp chẳng khác nào “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”, chủ trương của cụ Hoàng Hoa Thám tuy thực tế hơn, nhưng không có hướng thoát rõ ràng, “còn mang nặng cốt cách phong kiến”.
Thất bại của các cụ Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh... nói lên một sự thật lịch sử là: không thể cứu nước trên lập trường phong kiến hay lập trường của giai cấp tư sản, tiểu tư sản. Các đường lối và phương pháp này đều không đáp ứng được yêu cầu giải phóng dân tộc trong điều kiện chủ nghĩa đế quốc đã trở thành hệ thống thế giới. Chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam đang đòi hỏi được đổi mới, đó là một nhu cầu cấp thiết của dân tộc lúc bấy giờ.
2. Những chuyển biến của tình hình chính trị thế giới
Vào nửa cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản đã từ giai đoạn tự do cạnh tranh chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc và đã xác lập được sự thống trị trên phạm vi thế giới. Phần lớn các nước châu Á, châu Phi, châu Mỹ Latinh đã trở thành thuộc địa và phụ thuộc của chúng. Chủ nghĩa đế quốc vừa tranh giành xâu xé, vừa hùa với nhau để nô dịch các dân tộc nhỏ bé. Cùng với những mâu thuẫn cơ bản trong xã hội tư bản - mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và tư sản, chủ nghĩa đế quốc làm phát sinh mâu thuẫn mới - mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa đế quốc thực dân. Đời sống nhân dân ở các nước thuộc địa và phụ thuộc vô cùng cực khổ, trong đó có nhân dân Việt Nam dưới xiềng xích của chế độ thực dân Pháp. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc bắt đầu phát triển và có xu hướng lan rộng.
3. Phẩm chất và trí tuệ của Nguyễn Tất Thành
Nguyễn Tất Thành sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền thống hiếu học, một địa phương có truyền thống yêu nước. Từ lúc tuổi còn nhỏ, Người sớm được tiếp cận với các tư tưởng lớn của phương Đông, hấp thụ vốn văn hóa truyền thống của dân tộc, Hán học và bước đầu tiếp xúc với văn hoá phương Tây. Chứng kiến chứng kiến cảnh khổ cực của người dân mất nước, tinh thần đấu tranh bất khuất của cha anh, Người càng yêu nước, thương dân sâu sắc và hun đúc những hoài bão lớn lao. Vốn có tư chất thông minh, tinh thần ham học hỏi, khả năng tư duy độc lập, tính ham hiểu biết và nhạy bén với cái mới, Người bị lôi cuốn bởi khẩu hiệu “tự do, bình đẳng, bác ái” và thôi thúc bởi ý định tìm hiểu “cái gì ẩn giấu sau” những từ đẹp đẽ đó ở chính nước sinh ra khẩu hiệu đó. Những tư tưởng tiến bộ của cuộc cách mạng ở Pháp năm 1789, thành tựu văn minh, tiến bộ của nhân loại ở Pháp và các nước châu Âu khác, đã thúc đẩy Người muốn đến tận nơi tìm hiểu. Đó chính là những lý do Nguyễn Tất Thành quyết định chọn nước Pháp, chọn châu Âu làm điểm đến đầu tiên trong cuộc hành trình đi tìm đường cứu nước năm 1911.
II. Hành trình tìm đường cứu nước và những chuyển biến trong nhận thức về con đường giải phóng dân tộc của Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc
1. Hành trang ban đầu của Nguyễn Tất Thành khi ra nước ngoài là tri thức về văn hóa phương Đông và phương Tây, lòng yêu nước nhiệt thành, tiếp thu có chọn lọc con đường cứu nước của các nhà yêu nước lớp trước và một dự định rõ rệt, lớn lao, đó là “xem nước Pháp và các nước khác, sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào ta”, đó là dự định đi tìm con đường cứu nước, cứu dân. Ngày 05 tháng 6 năm 1911, trên con tàu “Đô đốc Latouche Tréville”, từ bến cảng Nhà Rồng của Thành phố Sài Gòn, Nguyễn Tất Thành đã lên đường sang Pháp. Người làm bất cứ việc gì để sống và hoạt động (phụ bếp dưới tàu, làm bánh trong các khách sạn, cào tuyết, đốt lò, chụp ảnh…). Gần mười năm, vừa lao động kiếm sống, vừa tiến hành khảo sát thực tiễn nhiều nước tư bản và các nước thuộc địa, khảo sát các cuộc cách mạng ở các nước Pháp, Anh, Mỹ... Nguyễn Tất Thành đã có nhận thức quan trọng là: cách mạng tư sản là những cuộc cách mạng vĩ đại, nhưng là những cuộc cách mạng chưa đến nơi. Nó đã phá tan gông xiềng phong kiến cùng những luật lệ hà khắc và những ràng buộc vô lý để giải phóng sức lao động của con người. Cách mạng tư sản xây dựng lên một chế độ mới tiến bộ hơn xã hội phong kiến. Nhưng cách mạng xong rồi dân chúng vẫn khổ, vẫn bị áp bức, bóc lột và vẫn mưu toan làm cách mạng. Từ đó, Người đi đến kết luận, chúng ta đổ xương máu để làm cách mạng thì không đi theo con đường cách mạng này. Nguyễn Tất Thành đã tìm ra những mặt trái của xã hội phương Tây, nhận ra “ở đâu cũng có người nghèo khổ như xứ sở mình” do ách áp bức, bóc lột dã man, vô nhân đạo của bọn thống trị. Điều đó đã giúp Người có một nhận thức quan trọng: nhân dân lao động trên toàn thế giới cần đoàn kết lại để đấu tranh chống kẻ thù chung là giai cấp thống trị cùng nhau thực hiện nguyện vọng chung là độc lập, tự do.
2. Sống hoà mình cùng nhân dân lao động và phong trào đấu tranh của công nhân Pháp, Nguyễn Ái Quốc say sưa hoạt động cách mạng, viết báo, hội họp, tuyên truyền, cổ động. Năm 1917, Nguyễn Tất Thành tham gia hoạt động trong phong trào của những người Việt Nam yêu nước tại Pháp. Thành công của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 có ảnh hưởng rất lớn đến tình cảm và nhận thức của Người. Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành tham gia Đảng xã hội Pháp. Ngày 18/6/1919, với tên gọi Nguyễn Ái Quốc, Người thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp gửi bản yêu sách tới Hội nghị Vécxây yêu cầu về quyền tự do, dân chủ, bình đẳng dân tộc cho nhân dân An Nam. Tám yêu cầu không được chấp nhận, nhưng đã vạch trần bản chất giả dối của các cường quốc thống trị, đồng thời cũng đem lại cho Nguyễn Ái Quốc một nhận thức tỉnh táo là các dân tộc muốn được giải phóng chỉ có thể dựa vào sức lực của bản thân mình.
3. Ra đi tìm đường cứu nước với tuổi đời còn rất trẻ và từ một xã hội thuộc địa, nửa phong kiến, lúc đó Nguyễn Ái Quốc chưa có một ý niệm rõ ràng về giai cấp, đấu tranh giai cấp, đảng chính trị, chủ nghĩa Mác-Lênin... Từ những hoạt động thực tiễn trên và đọc “Sơ thảo lần thứ nhất luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa” của V.I.Lênin đăng trên báo L’Humanité tháng 7/1920, Người đã đến với chủ nghĩa Mác-Lênin. Trong bối cảnh bấy giờ, có nhiều trí thức Việt Nam sống tại Pháp, nhưng Người đã thể hiện tính vượt trội của tư tưởng khi nhận ra được chân lý lớn nhất của thời đại. Luận cương đã giải đáp cho Nguyễn Ái Quốc những băn khoăn về con đường giành độc lập, tự do cho dân tộc, trả lời câu hỏi ai là người lãnh đạo, lực lượng tham gia và mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng ở các nước thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính quốc... Luận cương đã ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành thế giới quan cộng sản của Nguyễn Ái Quốc.
4. Quá trình tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin của Nguyễn Ái Quốc ngày càng có hệ thống và hoàn thiện khi Người tham gia Đảng Cộng sản Pháp, học tập ở Đại học phương Đông, sống trong không khí sục sôi ở trung tâm phong trào cộng sản ở Nga, hoạt động trong Quốc tế Cộng sản. Nhận thức của Người về sức mạnh của nhân dân lao động thế giới, về mối quan hệ giữa các dân tộc bị áp bức, giữa cách mạng ở các nước thuộc địa và các nước chính quốc trong cuộc đấu tranh chống đế quốc, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản của giai cấp công nhân, về chính quyền cách mạng và sử dụng bạo lực cách mạng... ngày càng sâu sắc và có những luận điểm bổ sung, phát triển, sáng tạo. Sự kiện Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành Quốc tế Cộng sản và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp tháng 12/1920 là một mốc lịch sử quan trọng trong hành trình đi tìm đường cứu nước của Người, đánh dấu bước chuyển biến quyết định, nhảy vọt, thay đổi về chất trong nhận thức tư tưởng và lập trường chính trị của Người - từ một nhà yêu nước chân chính trở thành một chiến sĩ cộng sản. Đồng thời, sự kiện đó cũng đánh dấu một bước ngoặt lịch sử vĩ đại của cách mạng Việt Nam, mở đầu quá trình kết hợp đấu tranh giai cấp với đấu tranh dân tộc, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, tinh thần yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Từ đây, cách mạng Việt Nam bắt đầu đi vào quỹ đạo của cách mạng vô sản. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con đường cách mạng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội bắt đầu hình thành.
5. Đầu năm 1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc). Tại đây, Người bắt đầu xây dựng những nhân tố bảo đảm cho cách mạng Việt Nam: truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam, khơi dậy tinh thần đấu tranh của các tầng lớp nhân dân, xây dựng tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam, phát triển lực lượng cách mạng... Việc Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt do Người dự thảo được thông qua tại Hội nghị hợp nhất, chứng tỏ đến 1930, tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc về con đường cách mạng Việt Nam đã được hình thành cơ bản.
6. Sau hơn 30 năm xa Tổ quốc, ngày 28/01/1941, Nguyễn Ái Quốc trở về nước để trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh cách mạng. Một trang mới mở ra trong cuộc đời cách mạng của Người và cũng là bước ngoặt mới cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam.
* Việc tìm ra con đường cứu nước, con đường phát triển của dân tộc của Nguyễn Ái Quốc có ý nghĩa lịch sử to lớn, đó là:
- Đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, với học thuyết chủ nghĩa xã hội khoa học, Nguyễn Ái Quốc đã đặt nền móng cho lý luận cách mạng Việt Nam trong thời đại mới; chấm dứt khủng hoảng đường lối cứu nước triền miên từ giữa thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX; tìm thấy đường lối phát triển đúng đắn cho dân tộc, phù hợp với trào lưu tiến hoá chung của nhân loại và xu thế của thời đại.
- Hồ Chí Minh đã đem ánh sáng chủ nghĩa Mác-Lênin soi đường cho phong trào yêu nước, chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam, làm cho chủ nghĩa yêu nước vươn lên tầm thời đại, trở thành chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh, mà sau này biểu tượng sáng chói trong hai cuộc kháng chiến lừng lẫy của dân tộc chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, trong công cuộc tái thiết và phát triển đất nước theo con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Với việc tìm ra con đường cứu nước, phát triển của dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đóng góp to lớn, thiết thực chuẩn bị cho việc mở ra một giai đoạn phát triển mới của phong trào cách mạng vô sản nói chung, phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc trên thế giới và châu Á nói riêng.
III. Vai trò quan trọng, quyết định của Hồ Chí Minh trước những bước ngoặt của cách mạng Việt Nam.
1. Truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào nước ta, hợp nhất các tổ chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, khởi thảo Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt - Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, xác định con đường của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội.
Xuất phát từ thực trạng đất nước, Nguyễn Ái Quốc không thành lập ngay Đảng Cộng sản mà thành lập một tổ chức cách mạng theo khuynh hướng mácxít để qua đó dần dần đưa chủ nghĩa Mác-Lênin vào quần chúng lao động, đó là Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Trong các tác phẩm, các bài báo, bài giảng của mình, Người đã kết hợp việc phổ biến lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin với việc giới thiệu những phương hướng cơ bản của cách mạng Việt Nam, vạch cho nhân dân ta con đường đi đến độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Đường Kách mệnh là một trong những tác phẩm có giá trị to lớn trên phương diện lý luận và thực tiễn, đóng vai trò quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin ở Việt Nam những năm 20. Người tổ chức chuyển tài liệu, sách vở, báo chí về nước; gấp rút đào tạo cán bộ làm nòng cốt cho phong trào cách mạng; tổ chức tuyên truyền, cổ động tư tưởng cứu nước trong nhân dân; mở lớp huấn luyện chính trị tại Quảng Châu để trang bị cho các học viên những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, về những nguyên tắc hoạt động bí mật và kỹ năng thực hành các công việc vận động quần chúng; chọn những học viên ưu tú kết nạp vào nhóm bí mật, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và cử về nước gây dựng phong trào... Việc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin đã thúc đẩy sự phát triển những tổ chức cộng sản, tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam sau này. Phong trào “vô sản hoá” đã góp phần đẩy nhanh quá trình giác ngộ chủ nghĩa Mác-Lênin của giai cấp công nhân. Phong trào đấu tranh của nhân dân lao động được lãnh đạo, liên kết với nhau thành một làn sóng mạnh mẽ. Chủ nghĩa Mác-Lênin do Nguyễn Ái Quốc có công truyền bá, đã thật sự chiếm lĩnh được lòng tin của phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
Năm 1930, việc hợp nhất thành công các tổ chức cộng sản thành một Đảng Cộng sản duy nhất là công lao to lớn của Nguyễn Ái Quốc. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhất là đã vạch ra đường lối cách mạng đúng đắn (qua Chánh cương, Sách lược), có hệ thống tổ chức thống nhất, chặt chẽ, rộng khắp cả nước, là một bước ngoặt quyết định của lịch sử cách mạng Việt NamNguyễn Ái Quốc - người tìm ra con đường cứu nước, truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam; người tổ chức, sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam; người rèn luyện, cán bộ, đảng viên theo chuẩn mực của đảng Mác-Lênin chân chính, trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là người lãnh đạo, người đày tớ trung thành của nhân dân.
2. Bằng nhạy cảm chính trị thiên tài, Nguyễn Ái Quốc nhận thấy tình hình thế giới có chuyển biến lớn, Người gấp rút trở về nước trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng. Người triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương Tám (5/1941). Đây là Hội nghị hoàn chỉnh thêm một bước sự chuyển hướng chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam được vạch ra từ Hội nghị Trung ương Sáu (11/1939). Tại Hội nghị này, Nguyễn Ái Quốc đã xác định nhiệm vụ dân tộc phải được đặt lên hàng đầu. Người khẳng định: Lúc này nếu quyền lợi của dân tộc không đòi lại được thì quyền lợi của bộ phận, của giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được. Người chỉ đạo thành lập một mặt trận rộng rãi và có tên thích hợp hơn Mặt trận Thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương để tập hợp lực lượng chống đế quốc. Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) ra đời với Chương trình cứu nước do chính Hồ Chí Minh dự thảo. Người chỉ đạo xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng căn cứ địa, tích cực chuẩn bị mọi mặt để sẵn sàng khởi nghĩa giành chính quyền. Đón bắt kịp thời thời cơ, Người và Đảng ta đã triệu tập Hội nghị toàn quốc của Đảng và Đại hội Quốc dân ngày 16 và 17/8/1945 thống nhất ý chí toàn dân, quyết định Tổng khởi nghĩa, làm nên thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám 1945.
3. Nắm vững vị trí quan trọng của chính quyền cách mạng, với Tuyên ngôn Độc lập, Người khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đặc biệt, với việc tổ chức thành công cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và sự ra đời Hiến pháp 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng lập Nhà nước cách mạng - Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Suốt chặng đường sau đó, bằng tầm nhìn văn hoá sâu rộng, kinh nghiệm chính trị phong phú và sáng tạo, Người đã lãnh đạo, tổ chức và xây dựng Nhà nước kiểu mới của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam, luôn phấn đấu vì độc lập tự do của dân tộc và hạnh phúc của nhân dân.
4. Với phương châm kháng chiến “toàn dân, toàn diện”, “trường kỳ và tự lực cánh sinh”, “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”; với ý chí “không có gì quý hơn độc lập tự do”, “Chúng ta thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”, Người đã hiệu triệu được lòng yêu nước, ý chí quật cường của nhân dân Việt Nam trong hai cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Những tư tưởng chỉ đạo sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta trong thời điểm đất nước “ngàn cân treo sợi tóc” với thù trong, giặc ngoài năm 1946; trong Nghị quyết Trung ương 15 (tháng 01/1959) về đường lối cách mạng miền Nam; trong chỉ đạo thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược ở hai miền Nam - Bắc và cả tinh thần “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào... là những nhân tố quan trọng, quyết định làm nên thắng lợi và thể hiện tinh thần nhân văn cao cả của dân tộc Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam trong xu thế thời đại, phát huy được sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong cuộc chiến đấu vì chính nghĩa của dân tộc. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - lá cờ bách chiến, bách thắng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được toàn Đảng, toàn dân, toàn quân giương cao, đưa Việt Nam thành lương tâm và khí phách của thờì đại.
5. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng sáng tạo lý luận về chủ nghĩa xã hội của học thuyết Mác-Lênin vào điều kiện Việt Nam. Chủ nghĩa xã hội - con đường phát triển của dân tộc mà Người đã lựa chọn, đang từng bước được hiện thực hóa sinh động trên đất nước Việt Nam.
IV. Những đóng góp to lớn của Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác-Lênin và cách mạng vô sản thế giới.
1. Hồ Chí Minh - nhà chính trị, nhà tư tưởng, người chiến sĩ cộng sản lỗi lạc của phong trào cộng sản, phong trào công nhân quốc tế: Từ khi rời Tổ quốc đi tìm con đường giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh sớm nhận thức muốn hoạt động cách mạng cần phải tham gia các tổ chức và hoà mình vào phong trào đấu tranh cách mạng. Người đã hoạt động trong phong trào của người Việt Nam yêu nước và phong trào công nhân Pháp, tham gia Đảng Xã hội Pháp; sinh hoạt trong Câu lạc bộ Phôbua; tham gia sáng lập Hội Liên hiệp thuộc địa; chủ nhiệm kiêm chủ báo Người cùng khổ; tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp; tham gia Quốc tế Cộng sản, hoạt động trong Quốc tế Nông dân; tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức... Những hoạt động đầy nhiệt huyết của Người - với tư cách nhà chính trị, nhà tư tưởng, người chiến sĩ cộng sản quốc tế đã in dấu đậm nét trong lịch sử cách mạng vô sản thế giới. Trong quá trình hoạt động cách mạng, nhiều lần phải sống trong thiếu thốn, khổ cực, nguy hiểm, tù đày, thậm chí bị hiểu lầm, nhưng trong hoàn cảnh nào, Người cũng có một niềm tin sắt son vào chủ nghĩa Mác-Lênin, nêu cao ý chí, bản lĩnh và phẩm chất của người chiến sĩ cộng sản.
2. Hồ Chí Minh có công truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin không chỉ ở Việt Nam mà còn ở nhiều nước trên thế giới. Nhiều bài báo của Người đã được đưa vào tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp, xuất bản năm l925, một công trình nghiên cứu về bản chất của chủ nghĩa thực dân, thức tỉnh và cổ vũ nhân dân các nước thuộc địa đứng lên tự giải phóng. Hoạt động trong tổ chức Quốc tế Cộng sản, Người tích cực đưa lý luận Mác-Lênin vào phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa; kiên trì bảo vệ, phát triển sáng tạo những quan điểm của V.I.Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa; hướng sự quan tâm của Quốc tế Cộng sản tới phong trào giải phóng dân tộc. Với trách nhiệm là Ủy viên Ban phương Đông của Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản, Người hướng dẫn và xây dựng phong trào cách mạng, phong trào cộng sản ở các nước châu Á và xúc tiến thành lập Đảng Cộng sản ở Việt Nam.
3. Sức lan toả của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam do Hồ Chí Minh lãnh đạo đối với các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc rất mạnh mẽ. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc và chủ nghĩa xã hội đã ảnh hưởng sâu sắc tới phong trào cách mạng ở hàng trăm nước thuộc địa và phụ thuộc ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh. Hàng loạt các phong trào giải phóng dân tộc liên tiếp nổ ra ở các nước Á, Phi và Mỹ Latinh rộng lớn trong suốt các thập kỷ 50, 60 và 70 của thế kỷ XX. Hệ thống thuộc địa thế giới đã từng được chủ nghĩa thực dân đế quốc xây dựng ròng rã trong 500 năm đã nhanh chóng sụp đổ hoàn toàn chỉ trong vòng chưa đầy 50 năm sau mốc son Việt Nam mang đậm dấu ấn Hồ Chí Minh.
4. Chủ tịch Hồ Chí Minh có những đóng góp quan trọng với lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, thể hiện ở một số nội dung chủ yếu sau: Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa không hoàn toàn phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở các nước chính quốc, nhân dân các dân tộc ở các nước thuộc địa có thể đứng lên tự giải phóng chính mình và cuộc cách mạng có thể thắng lợi trước. Đây là những cống hiến quan trọng vào kho tàng lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin.
Xuất phát từ tình hình ở các nước tư bản, Lênin đã nêu luận điểm Đảng Cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân. Xuất phát từ tình hình Việt Nam, Hồ Chí Minh nhận thấy việc ra đời của Đảng Cộng sản ở đây nếu chỉ kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân thì chưa đủ, vì giai cấp công nhân còn nhỏ bé và phong trào còn non yếu, do đó phải kết hợp cả với phong trào yêu nước rộng lớn của các tầng lớp nhân dân đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Hồ Chí Minh còn đi đến kết luận: Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời là Đảng của dân tộc Việt Nam. Đây là những luận điểm mới của Hồ Chí Minh, bổ sung vào học thuyết về Đảng Cộng sản của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Các Mác, Ph.Ăngghen xác định: quần chúng làm cách mạng là giai cấp công nhân, nông dân. Lênin trong cách mạng vô sản Nga, xác định: quần chúng cách mạng là công nhân, nông dân và binh lính. Đối với Hồ Chí Minh, lực lượng cách mạng là “cả quần chúng”, bao gồm: giai cấp công nhân - giai cấp lãnh đạo cách mạng, giai cấp nông dân - cùng với công nông là gốc của cách mạng, tiểu tư sản, trí thức, phú nông, trung, tiểu địa chủ, tư sản dân tộc, các cá nhân yêu nước, “bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới”. Quan điểm này của Người không chỉ đúng trong cách mạng giải phóng dân tộc mà còn trong sự nghiệp xây dựng đất nước ngày nay.
Hồ Chí Minh có những sáng tạo độc đáo trong các bước đi giành và bảo vệ nền độc lập dân tộc; luận giải khoa học, sâu sắc về mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hộiTrong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, ưu tiên giải quyết vấn đề dân tộc trước, giải quyết vấn đề dân chủ từng bước. Bảo vệ nền độc lập dân tộc đã giành được bằng biện pháp hòa bình, nhưng khi kẻ thù đã dùng chiến tranh xâm lược để áp đặt sự nô dịch mới, thì cần dựa vào và phát huy sức mạnh của cả dân tộc để bảo vệ nền độc lập dân tộc. Để bảo vệ nền độc lập dân tộc chân chính, cần xây dựng một xã hội mới là xã hội xã hội chủ nghĩa. Độc lập dân tộc để xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công và xây dựng chủ nghĩa xã hội để bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc.
Trong di sản tư tưởng của Người, có cả một hệ thống những chỉ dẫn khoa học về cách thức, biện pháp, bước đi trong thực hiện công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh thấm nhuần sâu sắc không chỉ tính khoa học, cách mạng mà còn có nhiều luận điểm bổ sung từ góc độ đạo đức, văn hoá, nhân văn.
V. Phát huy thắng lợi vĩ đại của đất nước trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội; thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011); tiếp tục triển khai thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”
1. Đảng ta kế thừa và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, luôn tìm tòi, làm sáng tỏ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, khẳng định quyết tâm tiếp nối con đường đó trong các văn kiện Đại hội của Đảng, nhất là trong các Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”. Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ là: “xây dựng được về cơ bản nền kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hoá phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, hạnh phúc”.
2. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nêu cao tinh thần trách nhiệm và nỗ lực thực hiện con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn, nhất là những điều căn dặn trong Di chúc của Người về điều kiện bảo đảm sự bền vững của con đường đó: bảo vệ độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, tổ chức một đời sống xã hội ưu việt, đầy tính nhân văn và thực sự đem cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, bồi dưỡng thế hệ trẻ sống có lý tưởng, có hoài bão, có phẩm chất đạo đức trong sáng, có lòng yêu nước nồng nàn để tiếp tục sự nghiệp cách mạng của ông cha, thực hiện đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế...
3. Hơn bốn năm qua, Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đã được triển khai sâu rộng trong các tổ chức của hệ thống chính trị và toàn xã hội và đã tạo được những chuyển biến quan trọng. Để phát huy những kết quả đó, trách nhiệm của mỗi cấp uỷ, các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước, mỗi cán bộ đảng viên và mọi tầng lớp nhân dân cần tiếp tục thực hiện có hiệu quả Cuộc vận động này, gắn liền với những nhiệm vụ về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng, đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
4Hiện nay, các thế lực thù địch đang tấn công vào chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Chúng tìm mọi cách xuyên tạc, bôi nhọ cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng của Người với ý đồ đen tối “lật đổ thần tượng Hồ Chí Minh”, đánh vào nền tảng tư tưởng của Đảng ta, phủ định con đường cách mạng Việt Nam... Trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và nhân dân là bảo vệ những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên quyết đấu tranh bác bỏ mọi luận điệu thâm hiểm của các thế lực thù địch, phản động. Tiếp tục nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn, phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới. Đó chính là sự bảo vệ đúng đắn nhất chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng ta, vững bước đi theo con đường của Hồ Chí Minh đã chọn, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Kỷ niệm sự kiện 100 năm Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước gắn với kỷ niệm 121 năm ngày sinh của Người, chúng ta càng hiểu rõ hơn về cuộc đời cách mạng và tư tưởng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây cũng dịp cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu sâu sắc hơn về những cống hiến to lớn của Người đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam và thế giới. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta nguyện thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội do Đảng hoạch định tại Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, được bổ sung, phát triển năm 2011. Đó là tấm lòng tri ân sâu sắc của toàn dân tộc đối với công lao vĩ đại của Lãnh tụ Hồ Chí Minh.
BAN TUYÊN GIÁO TRUNG ƯƠNG


18 tháng 5, 2011

“MỘT DÂN TỘC DỐT LÀ MỘT DÂN TỘC YẾU”

VietNamNet, 18/5/2011
Những bức thư Hồ Chí Minh gửi nhân ngày khai trường, mỗi câu nói trong những buổi gặp gỡ với thầy giáo, cô giáo, học sinh, phụ huynh học sinh... thật giản dị nhưng chứa đựng nhiều bài học quý về giáo dục.
Ngay từ những năm đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Hồ Chí Minh đã quan tâm tới giáo dục.
Những sắc lệnh đầu tiên của nước Việt Nam non trẻ là hai việc: cứu đói cho dân và học hành.
Người đứng đầu Nhà nước khi đó đã xếp hai công việc này vào hàng bức thiết lúc bấy giờ. Đói - chết, nhưng không có học cũng chết. Bởi: “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”.
Hồ Chí Minh viết: “Nạn dốt là một trong những phương pháp độc ác mà bọn thực dân dùng để cai trị chúng ta. Hơn chín mươi phần trăm đồng bào chúng ta mù chữ… Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy tôi đề nghị mở một chiến dịch để chống nạn mù chữ.
Bất cứ thời đại nào, một dân tộc yếu luôn là một nước nhược tiểu, lăm le bị đe doạ từ nhiều phía.
Hôm nay ai cũng vui vì Nhà nước coi “giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Tầm quan trọng của tri thức, của nguồn nhân lực chất lượng cao, thêm một lần nữa, được nhấn mạnh và đề cao.
Trong điều kiện đất nước còn nghèo, Nhà nước cũng đã cố gắng chi hơn 20% tổng chi ngân sách hàng năm cho giáo dục.
Cách đây 66 năm, trong những ngày mùa Thu Tháng Tám lịch sử, với những sắc lệnh đầu tiên cho bình dân học vụ, với mục tiêu diệt giặc đói và giặc dốt, Hồ Chí Minh đã thực sự coi giáo dục là quốc sách. Giáo dục có vai trò quan trọng đặc biệt ngay trong điều kiện của một đất nước non trẻ, đang đối mặt với nạn đói, đang chống chọi với đủ loại kẻ thù nội và ngoại xâm.  
Ngày hôm nay, các nhà sư phạm đưa ra khẩu hiệu: “Lấy học sinh làm trung tâm” rồi nhiều hội thảo, tranh luận nảy lửa xem giáo viên đóng vai trò then chốt hay quyết định…
Nhưng hãy xem lá thư gửi cho giáo viên và học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Hồ Chủ tịch viết: Dân tộc Việt Nam có vẻ vang sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không là nhờ một phần lớn vào công lao học tập của các em”. Không phải một phần mà là phần lớn công học tập.
Viết câu này, Hồ Chí Minh đã trao trách nhiệm cho học sinh, thực sự đã coi học sinh là chủ thể học tập. Đồng thời, trong nhà trường phải thi đua dạy tốt và học tốt.
Hôm nay, có nhiều cuộc vận động, nhiều phong trào, nhiều giải pháp liên quan đến đổi mới phương pháp dạy học.
Nhưng cũng chính vào cái thời điểm đất nước vừa tuyên bố độc lập thì Hồ Chí Minh đã xác định ngay: Học phải đi đôi với hành. “Đào tạo phải gắn với nhu cầu xã hội” là yêu cầu cấp thiết của ngành giáo dục hiện nay. Thực ra yêu cầu này không mới. Ngay trong những ngày đầu lập nước và trong thời gian đấu tranh thống nhất đất nước, Hồ Chí Minh đã nhiều lần căn dặn: “Học phải có mục đích. Học trong nhà trường phải gắn liền với lao động, sản xuất.
Hôm nay, nơi này nơi kia còn trăn trở với cách giáo dục nhồi sọ, thì ngay từ những năm chống thực dân Pháp, trong thư gửi hội nghị cán bộ phụ trách nhi đồng toàn quốc tháng 8/1950, Hồ Chí Minh đã chỉ ra cách dạy trẻ: “Cần làm cho chúng biết yêu Tổ quốc, thương đồng bào, yêu lao động, biết vệ sinh, giữ kỷ luật, học văn hóa. Đồng thời phải giữ toàn vẹn tính vui vẻ, hoạt bát, tự nhiên, tự động, trẻ trung của chúng, chớ làm cho chúng trở nên già cả.”
Hầu như tất cả những công việc mà giáo dục hôm nay đang tất bật triển khai, thì dường như, Hồ Chí Minh đã đề cập cách đây hơn 60 năm với lối nói nhẹ nhàng, kín đáo, giản dị; bằng tất cả sự trải nghiệm của một người bôn ba nhiều châu lục,  nhận thức sâu sắc sự kém cỏi, yếu đuối của một dân tộc thiếu cái chữ, thiếu hiền tài.
Ngô Thiệu Phong

KHÔNG NÊN CỘNG THÊM CÁI GÌ VÀO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Theo: TuanVietNam, 19/5/2008
“Đừng cố tìm ở Hồ Chí Minh cái gì cũng đều có, cũng đều “vĩ đại”, vì như vậy chính là xuyên tạc, hạ thấp hoặc là bôi nhọ tư tưởng Hồ Chí Minh” - GS Tương Lai đưa ra một vài gợi ý để hiểu sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh.
 
“Tư tưởng Hồ Chí Minh” không đơn thuần chỉ là sự vận dụng một cách sáng tạo những tư tưởng lí luận của “học thuyết C.Mác” vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. Hồ Chí Minh không chỉ tiếp thu những phần tinh tuý nhất của học thuyết khoa học và cách mạng đó. Là một nhà cách mạng chuyên nghiệp đã bôn ba khắp năm châu bốn biển, Hồ Chí Minh đã hấp thu vào mình trí tuệ, văn hoá của cả loài người, vì thế, Bác Hồ được thế giới nói đến như là một danh nhân văn hoá.
Có được điều đó, trước hết là do Hồ Chí Minh am hiểu sâu sắc về dân tộc mình, thấm nhuần lịch sử và văn hoá của dân tộc. Nhờ nắm vững phương pháp biện chứng của học thuyết C.Mác gắn với tư duy thực tiễn của người cách mạng Việt Nam gắn bó máu thịt với dân tộc mình, tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của sự kết hợp hài hoà đó.
Nhân kỉ niệm lần thứ 118 ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, xin mạnh dạn gợi lên đôi điều suy nghĩ: làm thế nào nghiên cứu để hiểu thật sâu sắc, để thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh. Xin chỉ gợi lên mấy vấn đề về hiểu và về phương pháp nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh:
Con người Hồ Chí Minh
Nói đến tư tưởng, trước hết phải nói đến con người. Con người mà cuộc đờisự nghiệp gắn liền với những sự kiện lịch sử Việt Nam, với những biến động lớn của thế giới trong một thời đoạn lịch sử đặc biệt với những biến động cực lớn.
Nguyễn Ái Quốc đến với học thuyết của C.Mác và Ph.Ăngghen, đến với tư tưởng của V.I.Lênin, từ thân phận của một người mất nước, một người dân thuộc địa, một người được hấp thu nền học vấn và triết lí phương Đông, rồi được bổ sung văn hóa và triết lí phương Tây, trước hết là văn hóa Pháp. Con người ấy, so với C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin, thì trải nhiều oan nghiệt, cay đắng về thân phận cá nhân hơn nhiều. Từ thân phận ấy, Hồ Chí Minh dễ có sự thông cảm sâu sắc hơn và mãnh liệt hơn với người dân thuộc địa nói riêng và những người lao động nghèo khổ, những dân tộc đang bị nô lệ, bị giày xéo phải gánh chịu áp bức, bất công trên thế giới nói chung. Sự cảm thông ấy không chỉ dừng lại ở thân phận cá nhân để nhìn ngắm và suy đoán về thế giới, mà đã vượt khỏi chính mình để có được cái tầm cao của người chiến sĩ cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng con người.
Là con người sống ở gần ba phần tư đầu thế kỉ XX, Hồ Chí Minh có điều kiện để thấy và hiểu được sự sụp đổ của hệ thống thuộc địa với phong trào giải phóng dân tộc làm thay đổi cục diện thế giới từ sau chiến thắng Điện Biên Phủ của Việt Nam, tạo ra một phản ứng dây chuyền, đánh sụp chủ nghĩa thực dân cũ, xuất hiện chủ nghĩa thực dân mới. Ba phần tư thế kỉ này chất chứa bao nhiêu sự biến, tác động mạnh đến số phận của nhiều dân tộc trên hành tinh này.
Tuy nhiên, cũng như C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin, Hồ Chí Minh không thấy được những biến động dữ dội về đời sống chính trị làm thay đổi diện mạo của thế giới mà sự sụp đổ của Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa cùng với những bước tiến như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ của một phần tư cuối thế kỉ XX bước sang thế kỉ XXI, những sự biến nổi bật nhất. Đặc biệt khoa học và công nghệ, một phần tư thế kỉ này có những bước tiến lớn hơn rất nhiều những thế kỉ trước gộp lại.
Chứng kiến những biến động ấy khiến cho tầm mắt không ít người đươc mở rộng hơn nhờ vào “sự xé toang một tấm màng bưng bít, sự hiện ra và sáng lên của sự thật, sự tan vỡ một số huyền thoại, sự phá sản nhiều giáo điều, sự bộc lộ những sai lầm trầm kha, sự nhận thức mới, không phải về lí tưởng mà về lí luận cách mạng, thực tiễn hoạt động và thực tế đời sống, sự khơi dậy những niềm hi vọng mới, sự bắt đầu một quá trình thanh lọc và tái tạo đầy hứa hẹn”.
Hồ Chí Minh đã từng là người đứng ở vị trí quyền lực cao nhất của Đảng và Nhà nước của một nước Việt Nam đã giành được độc lập, tự do trong 24 năm, từ tháng 8/1945 đến tháng 9/1969, sau cũng ngần ấy năm đã từng là lãnh tụ của Đảng, của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc trước 1945. So với V.I.Lênin chỉ có 7 năm lãnh đạo Nhà nước Xô Viết (1917-1924), Hồ Chí Minh có hơn gấp ba thời gian ở cương vị Chủ tịch nước. Với 24 năm là lãnh tụ của một Đảng cầm quyền, là Chủ tịch nước, đứng ở đỉnh cao quyền lực, song Hồ Chí Minh trước sau vẫn thủy chung như nhất là người lãnh tụ của nhân dân, gắn bó máu thịt với nhân dân, chiếm trọn trái tim của nhân dân, xứng đáng với lời ghi nhận của nhân dân và của Đảng: “Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch, người anh hùng dân tộc vĩ đại, và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta”.
So với C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin, học vấn của Hồ Chí Minh không bằng, bù vào đấy là sự thâm nhập vào cuộc sống, lăn lộn nhiều hơn, đi nhiều hơn, thấy nhiều hơn, đến được nhiều chân trời hơn, sống với nỗi khổ đau của con người nhiều hơn. Những con người ở nhiều đất nước, nhiều châu lục, nhiều màu da, nhiều tiếng nói, nhất là tiếng nói của những người cùng khổ.
Quả là hiếm có lãnh tụ cách mạng nào có điều kiện tắm mình trong những quằn quại suy tư, những khát vọng rộng lớn của con người đến như vậy. Hồ Chí Minh, vì thế, là người chiến sĩ cách mạng có những rung động của một nhà thơ. Nhà thơ trong nhà cách mạng Hồ Chí Minh. Để có được một số bài thơ hay mà không phải nhà cách mạng nào cũng có được:  “Trong tâm hồn Hồ Chí Minh luôn luôn phảng phất có thơ” (Phạm Văn Đồng). Đấy là một nét độc đáo trong nhân cách Hồ Chí Minh. Điều này khiến cho Hồ Chí Minh biết cảm nhận và rung động mãnh liệt, sâu lắng với con người trong sự sống đa dạng và phức tạp của nó.
Tầm vóc Hồ Chí Minh
Tầm vóc của con người, cuộc đời và sự nghiệp Hồ Chí Minh có thể nói gọn lại trong năm điểm nổi bật sau đây:
Trước hết và sau cùng, Hồ Chí Minh là một con người rất người, một người Việt Nam rất Việt Nam. Đúng là “dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chí Minh” theo đúng nghĩa sâu sắc, đậm đặc và rất nhất quán một nhân cách Hồ Chí Minh, một đường nét văn hóa Hồ Chí Minh rất Việt Nam. Những gì là lí luận, là khoa học, là uyên bác, là thâm thúy đều có trong Hồ Chí Minh song đó chính là sự hòa quyện, sự kết đọng của sự thông tuệ dân gian.
Đó là sự thông minh, tế nhị và mộc mạc của tinh hoa văn hóa Việt Nam thể hiện trong ứng xử hàng ngày của người dân quê trên đồng ruộng, giữa núi rừng, nơi “thôn cùng xóm vắng” (Nguyễn Trãi). Những uyên bác, những thâm thúy, những tế nhị và mộc mạc hòa quyện vào trong sự thông tuệ dân gian ấy được Hồ Chí Minh tiếp thu một cách hồn nhiên, thoải mái và có chọn lọc, để rồi thể hiện ra một cách dung dị nhưng không kém phần sâu lắng tế nhị, không kém phần minh triết trong cái khôn ngoan dân dã Việt Nam!
Chính điều này vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của sự gắn bó máu thịt giữa lãnh tụ và quần chúng, niềm tin yêu của nhân dân dành cho lãnh tụ của mình và là “ham muốn, ham muốn đến tột bậc” của Hồ Chí Minh về cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân mình.
Với đặc điểm này, cho dù với sự khiêm tốn tuyệt đối cần thiết, cũng phải nói rằng, so với những lãnh tụ cách mạng khác, Hồ Chí Minh có sự kết đọng đậm đặc hơn, quán triệt hơn, sâu xa và thấm thía hơn trong sự gắn bó tin yêu với nhân dân của mình và đồng thời hình ảnh Hồ Chí Minh sống trọn vẹn trong trái tim của họ. Hồ Chí Minh ở trong họ, gần gũi thân thiết với họ, nâng họ lên để cùng đứng với mình chứ không bao giờ đứng trên họ. Hồ Chí Minh với nhân dân mình là một.
Nói như nhà báo Úc Burchett: “Nói tới một người mà cả cuộc đời mình để lại ân tình sâu nặng trong nhân dân thì không có ai ngoài Chủ tịch Hồ Chí Minh”, và như đòi hỏi của Charles Fourniau, nhà sử học Pháp: “cần làm nổi bật một cách hiển nhiên và trên mọi tầm vóc, hình ảnh một con người đã là một trong ba hoặc bốn nhân vật vĩ đại nhất của phong trào công nhân và cách mạng thế giới, một trong những vĩ nhân của thế kỉ chúng ta”.
Hồ Chí Minh là con người của hành động, hành động rất thiết thực. Con người ấy không viết nhiều, không nói nhiều, không viết dài nói dài, song là con người làm, làm rất nhiều. Con người ấy nói ít, làm nhiều, thậm chí không cần nói, chỉ cần làm để rồi bằng việc làm cụ thể mà thuyết phục người ta làm theo mình. Nhưng như thế không hề là chủ thuyết của một nhà “triết học vô ngôn”, hoặc một “chính khách vô ngôn”. Hồ Chí Minh không phải không có những tác phẩm, những công trình, những bài viết, những diễn văn, những lời kêu gọi... Nhưng, tác phẩm lớn hơn cả, bài học sâu sắc nhất chính là cả cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh.
Giờ đây đọc lại hệ thống luận điểm của Hồ Chí Minh, khởi đầu từ những năm 20 của thế kỉ trước, cho đến tư tưởng chỉ đạo hai cuộc chiến tranh cứu nước, giải phóng dân tộc là trước sau như một nhất quán với tinh thần “Không có gì quí hơn độc lập tự do” mới thấy “vào thời ấy, hệ thống luận điểm của Hồ Chí Minh mới mẻ đến kì lạ, khó lòng tưởng tượng. Nó nằm trong dòng sáng tạo cách mạng của những con người mà cống hiến lí luận và sự nghiệp đấu tranh vạch đường cho thời đại” (Phạm Văn Đồng).
Đó là một con người sáng tạo, rất sáng tạo, con người đổi mới, thường xuyên đổi mới, đổi mới rất táo bạo. Con người ấy “có sự dị ứng bẩm sinh với bệnh giáo điều rập khuôn, bệnh công thức sáo mòn”. Từ quan điểm, đường lối cho đến cách sống, cách nói, cách viết, Hồ Chí Minh quyết liệt chống sự sáo mòn, hướng tới cái thiết thực, đạt tới hiệu quả cao nhất.
Trong con người ấy có sự hòa quyện nhuần nhị lí trí với tình cảm và tâm linh, sự gắn kết rất tự nhiên giữa tâm hồn nhạy cảm của một nhà thơ, với bản lĩnh tinh nhạy của một chính khách, và sự khoan hòa nhân ái của một lãnh tụ nhân dân. Đặc điểm nổi bật ấy tạo ra phong thái rất độc đáo của Hồ Chí Minh không trộn lẫn vào đâu được. Nhờ vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh đến với mọi tầng lớp nhân dân một cách dễ dàng vì nó gần gũi với cách cảm, cách nghĩ của họ, vừa rất truyền thống, vừa rất hiện đại. Biết cách làm cho dễ hiểu để đến được với người có trình độ học vấn thấp, song lại biết cách nâng cao lên để diễn đạt được chân lí của cuộc sống, thể hiện được khát vọng thầm kín và sâu xa của con người, nhất là những con người cùng khổ, con người bị áp bức.
Cách tư duy cũng như cách ứng xử của Hồ Chí Minh, như có người nhận xét, “vừa rất ta, vừa rất tây”, đây cũng là một nét độc đáo rất Hồ Chí Minh. Đã có người quan sát và kể lại cách Hồ Chí Minh chọn và ngắt một bông hoa hồng trong vườn Phủ Chủ tịch để tặng một người phụ nữ Pháp là 100% châu Âu. Nhưng cách Bác Hồ bưng bát nước chè xanh của một cụ già nông dân mời, vừa thổi, vừa uống thì 100% là Việt Nam. Ở trong ứng xử cũng như trong cách viết, cách trả lời nhà báo nước ngoài, cách diễn đạt những mệnh đề lí luận của Hồ Chí Minh có sự tinh tế nhuần nhuyễn của những đường nét triết lí phương Đông và văn hóa phương Tây, vừa dân tộc vừa quốc tế. Việt Nam, Phương Đông, Phương Tây, thế giới, thời đại đều có trong cốt cách ứng xử của Hồ Chí Minh. Không quá cường điệu khi Hélène Tourmaire, một nhà văn và cũng là nhà báo viết: “Hình ảnh Hồ Chí Minh đã hoàn chỉnh với sự kết hợp đức khôn ngoan của Phật, lòng bác ái của Chúa, triết học của Mác, thiên tài cách mạng của Lênin và tình cảm của một người chủ gia tộc, tất cả bao bọc trong một dáng dấp rất tự nhiên”.
Có thể nói một trong những nét độc đáo nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh là tính hệ thống đồng bộ của nó. Hệ thống đồng bộ trong những quan hệ tương tác với nhau, thâm nhập vào nhau, chuyển hóa thành nhau của chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, tức là các chiều cạnh của cuộc sống xã hội. Đây chính là khái niệm mới về nền văn minh.
Hồ Chí Minh không bị đẩy lệch về kinh tế, không rơi vào “kinh tế luận”, cũng không bị đẩy lệch về chính trị để rơi vào cái vũng bùn của quan điểm “chính trị là thống soái” từng gây nên bao thảm họa. Hồ Chí Minh càng không lệch về quân sự, để rơi vào sự sùng bái bạo lực, “chính quyền ra đời từ đầu ngọn súng” đấu tranh giai cấp, “một mất một còn” trong cuộc chiến “ai thắng ai”, cội nguồn của bao tai họa mà di lụy của nó vẫn chưa gột sạch, có lúc lại trở thành cách đánh lạc hướng những đòi hỏi về dân chủ, dân quyền và dân sinh rất thiết thực trong đời sống của người dân.
Không bị rơi vào những sai lầm, lệch lạc đó, vì Hồ Chí Minh có nhận thức sâu sằc về tính hệ thống đồng bộ xã hội, và trong tổng thể xã hội ấy, một quan niệm về xã hội mới mà Hồ Chí Minh muốn xây dựng. Trong ấy, Hồ Chí Minh đặt con người ở vị trí trung tâm. Đó là nét đặc sắc nổi bật của tư tưởng Hồ Chí Minh. Mà như thế có nghĩa là đặc biệt coi trọng về văn hóa, vì nói đến con người chính là nói đến văn hóa.                                        
Hồ Chí Minh đã làm hết sức mình để nâng cao trình độ phát triển kinh tế của đất nước. Không coi nhẹ kinh tế, không coi nhẹ chính trị, nhưng đặc biệt coi trọng văn hóa. Cố nâng đời sống kinh tế lên cho từng người, từng nhóm người, đặc biệt cho nhóm người đang có mức sống quá thấp, để trên cái nền của đời sống vật chất được nâng cao dần lên đó, mà có điều kiện đem lại hạnh phúc cho con người. Vì vậy, văn hóa là nhân tố đặc biệt quan trọng. Văn hóa bao gồm trí tuệ, tình cảm, phẩm chất, đạo đức, tóm lại là “cuộc sống người của con người”.
Với đặc sắc tư tưởng nổi bật như vậy, Hồ Chí Minh đã mở ra con đường và phương pháp xây dựng xã hội mới của Việt Nam, cũng có thể có giá trị đối với các nước đang phát triển. Thấy khoa học, thấy công nghệ, thấy kinh tế, thấy lí trí và trí tuệ, nhưng những cái đó không phải cái đặc sắc và sáng tạo của Hồ Chí Minh. Chỗ đặc sắc và sáng tạo của Hồ Chí Minh là nhận thức sâu sắc về tổng thể con người, về văn hóa. Tổng thế và văn hóa, tức là con người. Đó chính là tầm nhìn và cách tư duy để tìm kiếm con đường hiện đại, có thể rút ngắn đoạn đường, đi tắt để phát triển.
Quán triệt điểm đặc sắc ấy của tư tưởng Hồ Chí Minh, thì về kinh tế sẽ tránh rơi vào nền kinh tế thị trường hoang dã, chộp giật, mà làm kinh tế, làm chính trị là để nhằm tôn vinh dân chủ, tức là tôn vinh người dân và con người. Nếu làm kinh tế thị trường đơn thuần với chính trị với hàm nghĩa những mưu lược, thì mục tiêu dù đạt được cũng dễ làm mất văn hóa, dễ “nuốt trôi” mất văn hóa. Ngược lại, xuất phát từ văn hóa, tức là từ con người thì sẽ nâng cao kinh tế và chính trị lên với những nội dung văn hóa được đưa vào. Nếu hiểu sâu sắc đặc điểm nổi trội ấy của tư tưởng Hồ Chí Minh, sẽ giúp hình thành một hệ thống giá trị chân chính của xã hội mới.
Từ nét đặc điểm nổi trội ấy mà nhận ra tinh thần đại đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Đại đoàn kết để xây dựng xã hội mới. Mãi mãi đại đoàn kết dân tộc. Đây là điểm độc đáo của tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin không tìm thấy điều này, hoặc nếu có đôi điều nói thoáng qua, chứ không tập trung, nổi bật như của Hồ Chí Minh.
Qua quá trình tiến lên của cách mạng, mục tiêu, động lựclực lượng không hề có sự sắp xếp loại bỏ, thay đổi, chỉ có sự nâng cao về chất mà không bớt đi về lượng, về số tầng lớp, số người tham gia. Nghĩa là với Hồ Chí Minh, không có chuyện một bộ phận nào đó của nhân dân, một tầng lớp xã hội nào đó nửa chừng đứt gánh, không thể cùng chung con đường mình đang đi. Không có chuyện ai đó, tầng lớp nào đó chỉ là “bạn đường một đoạn” trong cả chặng đường dài, vì họ không còn đủ điều kiện theo đến cùng nên phải thải loại ra.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh không có luận điểm về sắp xếp lực lượng cách mạng trong từng giai đoạn, bố trí chiến lược, chiến thuật về lực lượng: lực lượng chủ lực, lực lượng đồng minh gần tức là đồng minh chiến lược, rồi đồng minh xa, tức là đồng minh chiến thuật, lực lượng trung lập lâu dài hoặc trung lập từng lúc một như trong những chỉ dẫn của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh có thể có những thay đổi về mục tiêu cụ thể, thay đổi về nhiệm vụ, chủ trương và phương pháp nhưng không có sự thay đổi về lực lượng cách mạng. Trong học thuyết và tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin có khái niệm “bạn đường một đoạn”, trong Hồ Chí Minh không hề có điều ấy.
Cũng đã có một số người vì những lí do nào đó không thể đi theo Hồ Chí Minh, trong đó có người rất đau lòng, nuối tiếc vì hoàn cảnh bắt buộc và rồi sau đó họ quay trở lại với Hồ Chí Minh. Cũng có thể nói, chỉ có ai đó đã bỏ Hồ Chí Minh, chứ Hồ Chí Minh thì không bỏ một ai. Ai đó tự loại trừ chính mình, chứ Hồ Chí Minh không loại trừ ai. Phải lưu ý nhấn mạnh điều này vì, cũng đã có người nhân danh cách mạng đã làm hoen ố sự chân thành, thủy chung như nhất của Hồ Chí Minh với khối đại đoàn kết dân tộc. Bằng những thủ đoạn bè phái, hẹp hòi, họ đã làm tổn thương đến niềm tin của dân đối với tư tưởng Hồ Chí Minh. Họ đã làm vấy bẩn hình ảnh Hồ Chí Minh trong sự tin yêu và thân thiết với tấm lòng rộng mở và chân thành của Hồ Chí Minh, làm cho những ngừơi trung thực giảm lòng tin vào Hồ Chí Minh. Những hẹp hòi, thiển cận, thủ đoạn của họ đã gây nên những tổn thất cho sự nghiệp mà Hồ Chí Minh suốt đời đeo đuổi.
Hồ Chí Minh rất coi trọng cá nhân từng người trong cộng đồng dân tộc. Điều này do nhiều nhân tố tạo thành chứ không phải chỉ là do tiếp thu được từ học thuyết của C.Mác. Nếu có tiếp thu thì là tiếp thu cái cốt lõi có giá trị nhất của học thuyết ấy bằng  truyền thống về nhân văn sâu xa từ triết lí cổ đại thời Hy-La, rồi hiện đại dần lên đến thời cổ điển, phục hưng, khai sáng cho đến thời hiện đại của phương Tây. Có thể nói, truyền thống nhân văn ấy là phần rất nổi bật trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Về mặt coi trọng cá nhân con người, tư tưởng Hồ Chí Minh, trong chừng mực nào đó, là rộng hơn C.Mác. Điều này gắn liền với giá trị tinh thần Việt Nam trong truyền thống văn hóa phương Đông đối với con người. Điểm nổi bật nhất của giá trị đó chính là biểu hiện xuyên suốt trong cuộc đời, trong sự nghiệp và trong tư tưởng bản chất người, bản chất dân tộc của Hồ Chí Minh. Có được điều ấy vì Hồ Chí Minh phải sống và hoạt động trong hoàn cảnh cực kì khó khăn. Những đốm lửa cách mạng được nhen nhóm từ trong điều kiện rất hiểm nghèo, khắc nghiệt của chế độ thuộc địa Pháp ở Việt Nam, phải chắt chiu, trân trọng gìn giữ và phát huy từng cá nhân con người, phải coi trọng từng cá nhân con người mới có thể thổi bùng lên ngọn lửa của Cách mạng tháng Tám và ngọn lửa kháng chiến của các cuộc kháng chiến trường kì trong thế kỉ XX.
Hồ Chí Minh nâng niu trân trọng con người, từng cá nhân con người, nhẫn nại thức tỉnh, giác ngộ, đào tạo từng người, không nề hà công sức, không quản ngại khó khăn, năng nhặt chặt bị, từng li từng tí một góp gió thành bão. Khởi đầu từ cái cụ thể tưởng như nhỏ nhặt không đáng kể để rồi trở thành một công trình vĩ đại mang ý nghĩa thời đại, ý nghĩa lịch sử.
Đi khắp năm châu bốn biển, ôm ấp một hoài bão lớn lao về giải phóng dân tộc mình, góp phần giải phóng loài người, nhưng khi trở về lại mảnh đất của quê hương, đất nước thì lại có thể kiên trì giúp đỡ, dìu dắt, giác ngộ cho một đồng bào của mình ở miền núi, từ việc nhẫn nại dạy chữ, giảng giải về hoạt động cách mạng để người đó có thể trực tiếp tham gia rồi dần dần trở thành người cán bộ cách mạng. Không chỉ là cá biệt một người, mà nhiều trường hợp với nhiều người khác cũng đã được Hồ Chí Minh trực tiếp dìu dắt, giúp đỡ mà trưởng thành.
Biết đánh giá, sử dụng và phát huy từng người cả đức và tài của họ. Trong rất nhiều trường hợp, nhất là trong những trường hợp có ý nghĩa lịch sử, thiên tài của Hồ Chí Minh thể hiện ra ở đây là chọn rất đúng và rất trúng người đáp ứng được đòi hỏi của nhiệm vụ lịch sử  ấy.
Tôn trọng, chăm lo, tạo điều kiện làm nảy nở và tạo dựng nên nhân cách của từng người. Hồ Chí Minh hiểu rõ thế nào là nhân cách, rất dễ dàng cảm thông, trân trọng nhân cách và cá tính của con người. Nếu nhớ lại rằng, do điều kiện đặc biệt của người chiến sĩ cách mạng luôn luôn phải đối phó với hoàn cảnh khắc nghiệt bởi tính chất của công việc và mạng lưới bủa vây, truy lùng của kẻ thù, Hồ Chí Minh không có gia đình, không có được môi trường sống bình thường của một con người trong tình cảm, nghĩa vụ và ứng xử hàng ngày với ông bà, cha mẹ, vợ con, anh chị em… Hiểu như vậy mới thấy hết được cái lớn của tấm lòng cảm thông và cung cách ứng xử hàng ngày của Hồ Chí Minh với mọi người, với từng người.
Hồ Chí Minh thực hiện một cách mẫu mực và chân thật sự bình đẳng của các cá nhân, không hề cường điệu, phân biệt giữa người bình thường với người giữ trọng trách, người ở cương vị cao chót vót. Hồ Chí Minh thường xuyên hỏi ý kiến các đồng chí lãnh đạo của Đảng và Nhà nước song cũng đồng thời sẵn sàng và thành thật hỏi ý kiến những đồng chí cấp dưỡng, lái xe, bảo vệ mình gặp hàng ngày. Người ta kể lại rằng, có lần Hồ Chí Minh không chấp nhận ý kiến của một Ủy viên Bộ Chính trị, nhưng lại lắng nghe và chấp nhận ý kiến của một người cấp dưỡng.
Bằng cuộc sống đầy bản sắc của riêng mình, Hồ Chí Minh biết và hiểu được theo chiều sâu bản sắc của từng người, từng hạng người để tôn trọng và giúp trau giồi bản sắc ấy ở mỗi người. Hồ Chí Minh đều rất tôn trọng cả hai mặt: một mặt là cải tạo hoàn cảnh bên ngoài trở nên “hoàn cảnh có tính người” như C.Mác nói, để qua đó, cải tạo con người và làm nên được bản sắc của con người mới. Một mặt khác, đi vào chiều sâu bên trong của từng con người như tâm linh dân tộc, tâm linh tôn giáo, tính chất trí thức, đặc điểm thế hệ, tâm lí cá nhân, những khát vọng, những nét bản sắc của từng cá nhân ấy.
Phương pháp luận để hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh
Trong quá trình nghiên cứu, tìm tòi để hiểu được sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng tôi nghiệm ra rằng, cần phải xác lập cho mình một cách thức tìm hiểu, điều mà người ta hay nói là phương pháp luận. Xin gợi ra đây những suy ngẫm về vấn đề này.
Tư tưởng Hồ Chí Minh có sự bình thường sau khi đã trải qua sự cao siêu; có sự giản dị sau khi đã trải qua sự phong phú, đa dạng, phức tạp; cụ thể sau khi đã trải qua trừu tượng; mộc mạc sau khi đã rất tinh tế; đạm, rất đạm sau khi đã rất nồng; khiêm nhường sau khi đã từng trải để rất biết người, biết mình; ung dung, thanh thản sau khi tự mình đã trải nghiệm qua biết bao sự chịu đựng cay đắng đủ điều, từ sự chịu đựng vì sự nghiệp của nước, của dân cho đến sự đắng cay của cuộc sống cá nhân, của thân phận con người.
Vì vậy, đơn giản hóa, tầm thường hóa, dung tục hóa, hoặc ngược lại rắc rối đến cầu kì, phức tạp, đi sâu vào tầm chương trích cú, tìm sự phong phú ở cái rậm rạp, xô bồ trong cách nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh thì rồi dù vô tình hay cố ý cũng đều không dẫn đến cách nắm bắt và tiếp nhận cái cốt lõi của tư tưởng Hồ chí Minh. Cũng giống như những nhà tư tưởng lớn của loài người mà Hồ Chí Minh đã học hỏi tiếp thu, tư tưởng Hồ Chí Minh có sự đa dạng, nhiều chiều, năng động, luôn luôn phát triển chứ không phải là “nhất thành bất biến”. Chỉ có một điều cần thấy rõ, đó là, từ lúc manh nha, đến lúc hình thành, và khi vận dụng vào cuộc sống, rồi được sửa chữa, bổ sung, đều đã thể hiện sự nhất quán, rất nổi bật “tính chất trước sau như một” của tư tưởng Hồ Chí Minh. Cả hai biểu hiện ấy, “đa dạng, năng động, nhiều chiều, không “nhất thành bất biến” thống nhất với sự nhất quán, “trước sau như một”, xin được gọi là “tính chất một” cực kì hàm súc của tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa rất lớn.
Chú ý đến biểu hiện ấy trong phương pháp luận nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh cũng là chú ý đến sự gặp gỡ thú vị của phong cách Hồ Chí Minh với xu thế hiện nay của khoa học và của đặc điểm trí tuệ của thời đại là: tổng thể hóa trong đa dạng, chứ không chỉ là chuyên biệt hóa ngày càng sâu, càng tinh vi khi đi sâu vào phân tích cụ thể mà thiếu sự tổng hợp.
Đây là sự tổng thể hóa đầy mâu thuẫn trong đời sống và hoạt động của con người, từ cá nhân đến cộng đồng, từ một góc tâm linh, một nét tiềm thức hoặc là vô thức sâu kín, bí ẩn nhất của mỗi con người, cho đến động thái của mỗi dân tộc và của cả loài người. Có sự tổng thể hóa nhiều sắc thái của kiến thức và nghiên cứu khoa học của con người, nó là kết quả đan xen vào nhau, trở thành nhau của nhiều ngành, nhiều phương pháp khoa học, trong khi mà sự chuyên biệt hóa, bên cạnh mặt mạnh của nó, ngày càng bộc lộ những nhược điểm khá rõ. Đó là sự liên ngành, mà thực chất mới chỉ là sự phối hợp, kết hợp giữa nội dung và phương pháp của nhiều ngành để bổ sung và làm sáng tỏ cho nhau nhưng vẫn chưa bộc lộ hết tiềm năng của nó, chưa đáp ứng được những yêu cầu mới của thời đại.
Nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh phải là sự nghiên cứu rất hiện đại, chứ chỉ dừng lại phương pháp liên ngành như đã từng có trong nửa cuối thế kỉ XX thì chưa đủ và đã bị vượt qua. Phương pháp phân tích cụ thể quá sẽ thành ra chi li, dẫn đến phân tán. Tuy rằng đi sâu vào từng lĩnh vực của tư tưởng Hồ Chí Minh thì cần thiết, song chưa đủ. Cách nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh có triển vọng nhất đó là một, nhất quán trong đa dạng, tổng thể hóa trong phong phú. Với phương pháp luận đó thì có thể sẽ tìm ra và nhấn mạnh không nhiều, nhưng lại có sức khái quát lớn.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là thiết thực và hành động, cho nên phương pháp nghiên cứu, tìm hiểu, tiếp nhận và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh cũng phải như vậy. Sự nghiên cứu uyên bác là rất cần, càng uyên bác, thâm thúy thì càng hay, nhưng cần luôn luôn ghi nhớ cái chất của Hồ Chí Minh, cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là thiết thực và hành động. Uyên bác và thâm thúy nhất của Hồ Chí Minh là thiết thực và có hiệu quả trong hành động.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là chân thực. Bởi vậy, vấn đề là phải làm sao phát hiện được, tiếp nhận được tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự chân thực đó. Trong những thiên lệch cần phải tránh thì trước hết phải tránh sự “tụng ca”, “vĩ nhân ca”. Không nên và không thể cộng thêm cái gì vào tư tưởng Hồ Chí Minh, vì tư tưởng ấy cũng chính là nhân cách Hồ Chí Minh. Mọi ý định, cho dù là thiện chí muốn thêm vào thì chỉ là trừ đi, và nếu Hồ Chí Minh biết thì sẽ cười rằng “đừng vẽ rắn thêm chân”! Sự cường điệu về chất, về mức là không trung thực, hoàn toàn không cần thiết, hơn nữa, là có hại. Vấn đề là ở chỗ nhận cho ra đâu là nét đích thực của tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện qua việc làm, qua cách sống, qua lời nói, qua bài viết, qua cơ đồ, qua sự nghiệp. Đừng cố tìm ở Hồ Chí Minh cái gì cũng đều có, cũng đều “vĩ đại”, vì như vậy chính là xuyên tạc, hạ thấp hoặc là bôi nhọ tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh đòi hỏi phải thấy cho rõ, cho đúng, cho đủ những thiếu sót, sai lầm chủ quan đã để lại dấu ấn trong tư tưởng, trong việc làm, trong sự nghiệp của Hồ Chí Minh. Những cái đó không thể không có, vì Hồ Chí Minh là một con người chứ không phải là một vị thánh. Hồ Chí Minh không thể không có sai lầm, cần phải khách quan và trung thực chỉ ra. Chỉ ra được những sai lầm và tác hại của nó một cách đúng đắn là thể hiện sự kính trọng và tin yêu. Cùng với cái đó, cũng phải phân tích rõ những hạn chế lịch sử mà Hồ Chí Minh không thể vượt qua được, những hạn chế đó cũng để lại những di lụy không nhỏ trong sự nghiệp của Hồ Chí Minh.
Kế thừa, vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là sự nâng niu, bảo quản như bảo quản một di vật quí trong bảo tàng. Kế thừa là vận dụng và phát triển. Vậy thế nào là kế thừa và vận dụng đúng đắn tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện hiện nay, điều kiện của dân tộc, của thế giới, của thời đại? Đây là một khó khăn phức tạp và có thể tác động ngược lại đến việc nhận thức tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thông thường, việc kế thừa và vận dụng một tư tưởng đòi hỏi một sự lựa chọn. Nếu không có sự lựa chọn thì cũng không thể có sự kế thừa, vận dụng và phát huy. Và nói lựa chọn tức là đòi hỏi phải bỏ qua một số điểm nào đó, cố ý làm nổi bật lên hay làm nhẹ bớt đi một số điều nào đó, là nắm bắt những thông điệp nào đó và lướt qua những thông điệp nào đó. Đó là cách làm đúng đắn mang tính khoa học cao, có thể gọi đó là điều có tính qui luật được vận dụng phổ biến, để không chỉ nhằm học tập, tiếp thu những thành tựu trí tuệ của văn hóa và văn minh loài người đã đạt được, mà cũng chính là cách những người được xem là những vĩ nhân, những nhà tư tưởng lớn của loài người đã thực hiện như thế nào để trở thành vĩ nhân.
Có một lập luận cho rằng: hãy nghe thấy trong Hồ Chí Minh điều mà dân tộc ta cần nghe vào chính lúc này. Hãy tìm thấy, làm nổi bật lên, học theo và thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh điều mà dân tộc ta cần nhất vào lúc này với niềm tin rằng, những cái đó đều có trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Lập luận đó có cơ sở đúng bởi vì, thường là vĩ nhân nào mà cốt lõi tư tưởng là vì con người, dân tộc và loài người thì càng đa dạng và phong phú, càng chứa đựng nhiều thông điệp cần thiết cho mọi thời đại, càng dễ vận dụng theo cách lựa chọn trên. Vấn đề là, với sự tiếp cận này, sự chân thực có được với niềm tin rằng đó là khách quan và khoa học đạt được đến đâu và đâu là điểm dừng cần phải có?
Những người phản bác lại lập luận đó thì cho rằng, với cách ấy rất dễ chủ quan, tùy tiện gán cho Hồ Chí Minh những điều mà mình muốn, mình đang trông chờ chứ không phải là trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã có những điều đó. Lúc này đang cần có tri thức và kinh nghiệm về kinh tế thị trường thì cố đào cho ra trong tư tưởng Hồ Chí Minh những điều ấy. Khi đất nước đang bị hút vào quĩ đạo của toàn cầu hóa thì đã cố moi tìm chỗ này, chỗ kia rằng Hồ Chí Minh đã nói về toàn cầu hóa và hội nhập hay chí ít cũng manh nha những tư tưởng ấy. Nếu làm như vậy thì đúng là giả tạo và không biết đến điểm dừng.
Nhưng đã là phương pháp luận khoa học thì phải có sự lựa chọn, có mức độ, có điểm dừng, có thái độ trung thực khoa học đầy trách nhiệm để có cách xử lí thỏa đáng. Đây là điều không dễ dàng chút nào, song là một phương pháp luận, mà theo chúng tôi, cần phải chú ý vận dụng. Một phương pháp luận nghiên cứu như thế mới có thể đưa tới những công trình nghiên cứu xứng đáng với Hồ Chí Minh. Càng kính trọng và tin yêu Hồ Chí Minh, thấy rõ tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa lớn lao như thế nào đối với vận mệnh của đất nước, sự nghiệp của nhân dân và tương lai của dân tộc, càng phải tuân thủ phương pháp luận đó.
Đây là những suy ngẫm nghiêm túc song không thể tránh khỏi những “thô thiển”, xin mạnh dạn nêu lên để trao đổi. Theo chúng tôi làm như vậy cũng là cách thiết thực kỉ niệm ngày sinh của Người.
Tương Lai