7 tháng 8, 2012

SỰ BIẾN THÁI ĐÁNG SỢ CỦA NGÔN NGỮ

Sổ tay - ANTG cuối tháng (03/8/2012)
Ngôn ngữ - tiếng nói, phương tiện giao tiếp chủ yếu của con người. Đứng về mặt nào đó, ngôn ngữ là một tấm lăng kính phản ảnh khá trung thực hình thái xã hội con người. Nhìn vào thực trạng ngôn ngữ trên bình diện là một đối tượng nghiên cứu, và nghe tiếng nói có thể nhận ra xã hội đó đang ở giai đoạn nào, những hình thái chính trị, kinh tế, xã hội của giai đoạn đó ra sao.
Thầy tôi, Giáo sư Đinh Gia Khánh, từng nhấn mạnh ngôn ngữ cũng như một sinh vật có thể sinh ra và mất đi. Chính vì thế nên ngôn ngữ luôn luôn tồn tại hai trạng thái. Một là tử ngữ (những tiếng mất đi), hai là sinh ngữ (những tiếng phát sinh). Bên cạnh đó ngôn ngữ còn có sự biến thái - hiện trạng biến đổi nhóm ngôn ngữ của nhóm người theo từng nghề nghiệp, từng tầng lớp xã hội chịu tác động của hoàn cảnh xã hội, quan niệm, trình độ văn hoá, giáo dục.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX kinh thành Thăng Long dần dần được đô thị hoá, tầng lớp quí tộc mới, thương gia hình thành. Phương tiện giao thông hồi đó dành cho tầng lớp này ngoài ngựa, còn có các loại cáng, đểu (một thứ giống như kiệu). Những người phục vụ hai phương tiện này gọi là phu cáng, phu đểu bị coi là tầng lớp thấp hèn, bị khinh miệt nhất trong xã hội dạo đó. Vì quan niệm này nên trong ngôn ngữ răn dạy con thời này có câu: Mày không học hành tử tế, lớn lên cũng chỉ làm đồ đểu cáng mà thôi. Lâu dần danh từ chỉ hai nghề này được ghép lại thành một tính từ miệt thị “đồ đểu cáng”.
Hà Nội vốn là thành phố nhiều cây me, cây sấu, khi mùa hè về xuất hiện nhóm thanh, thiếu niên trèo me trèo sấu để hái, lượm hai loại quả này. Thời Pháp thuộc quan niệm những người làm nghề trèo me trèo sấu là hạng cùng đinh, mạt hạng trong xã hội. Danh từ này lâu dần trở nên duy danh để chỉ những kẻ ăn cắp vặt, lang thang, lưu manh, vô giáo dục, cơ nhỡ chốn Hà thành đồ trèo me trèo sấu”... Dẫn hai ví dụ về sự biến thái, chuyển hoá ngữ nghĩa của ngôn ngữ để càng thấy rõ tác động của hoàn cảnh xã hội lớn lao như thế nào trong việc làm thay đổi trạng thái ngôn ngữ.
Bên cạnh sự biến thái đó thì các nhà ngôn ngữ học luôn luôn khẳng định ngôn ngữ Việt Nam là một trong những ngôn ngữ thuộc loại có sức sống nhất trên thế giới. Trải qua mọi thăng trầm, biến động của lịch sử, ngôn ngữ Việt Nam chẳng những không mất đi, không bị nghèo nàn, biến dạng mà ngày càng phong phú, sinh động, vì biết chọn lọc, hoà đồng một cách hợp lý mọi loại ngôn ngữ ngoại lai khi du nhập vào nước ta. Sự biến hoá của tiếng Hán trở thành tiếng Hán Việt nhập vào hệ thống ngôn ngữ tiếng Việt Mường cổ (ngôn ngữ gốc của tiếng Việt), rồi sự du nhập của tiếng Pháp được chuyển hoá vào dòng chảy tiếng Việt là những ví dụ sinh động.
Ngày nay, dân tộc ta trong giao tiếp hàng ngày đã sử dụng thành thạo vốn ngôn từ có những từ xuất phát từ tiếng Hán chiếm đến 68% trong ngôn ngữ nước ta, và hàng loạt tiếng có gốc tiếng Pháp đã được Việt hoá một cách tài ba như xà phòng, xoong, xích, líp, xích lô, ba gác.... Tất cả sự chuyển hoá đều có qui luật trong ngôn ngữ...
Nhưng đến giai đoạn hiện nay nghe cách nói thường ngày của một số tầng lớp, nhất là giới tuổi trẻ, thì có thể nhận ra tình trạng ngôn ngữ nước ta, hay nói cụ thể hơn là tiếng Việt của chúng ta, đang bị biến thái theo hướng đáng báo động. Có thể nói sự biến thái này như một tiếng chuông báo động về ngôn ngữ, tiếng nói mà cha ông ta dày công xây dựng và giữ gìn suốt cả chiều dài phát triển của nền văn hoá Việt Nam
Thực trạng của sự biến thái này ra sao?
Chỉ cần nghe qua trong giao tiếp hàng ngày đã thấy: một ông, một bà ở thành phố hay phụ cận cả đời không biết một chút tiếng Anh nào nhưng gặp nhau là buột miệng chào như  người  Mỹ hê lô. Để biểu hiện sự ưng thuận sau khi bàn bạc một công việc gì đấy bất kể trong lĩnh vực nào cũng hạ một câu ô kê, rồi ô kê nhé, ô kê đi, ô kê ạ. Một đứa trẻ lên ba tuổi tập nói khi ra về chào ông bà nội, ngoại cũng được bố mẹ nhắc “con bai ông bà đi”. Và đứa trẻ bập bẹ bai bai ông, bai bai bà”.
Trong quán bia nơi ngôn ngữ được thả phanh sự biến thái này càng được gia tăng. Các bia sĩ nói với nhau: “Cậu phải Nông quốc Chấn thằng cha ấy đi. Không, hết tiền thì anh em mình phải Ju-ven-tút đấy. Còn tao, uống thế thôi, không tao lại ác-xê-nôn xong li-vơ-phun một trận thì mệt lắm”.
Trong lớp học, học sinh thì thào với nhau khi thầy giáo vắng mặt: “Thầy đi đâu mà đầu lâu thế. Đã vậy thì bọn mình cứ thoải con gà mái đi. Giới trẻ không chỉ đàm thoại với nhau bằng thứ ngôn ngữ biến dạng bất chấp tất cả qui luật của ngôn ngữ mà còn đua nhau biến tấu, trình diễn, xem đó như một thứ mốt thời thượng. Nhà xuất bản nọ đã cho ra đời một ấn phẩm đầy rẫy những từ, như tự nhiên như cô tiên”, “ngất ngây con gà tây”, “tào lao bí đao”, “đã xấu lại còn xa”...
Sự biến thái, phá vỡ mọi qui luật của ngôn ngữ này càng có đất tung hoành dụng võ hơn trong các tin nhắn, trong chát, trong thư điện tử của lứa tuổi trẻ. Một câu nhắn tin: Tối nay go out nhé. Nếu OK thì phone cho tui. Đồn có địch, no table” (tạm dịch: Tối nay đi nhé. Nếu được thì gọi điện cho tôi. Nhà đang có khách. Không bàn tiếp”...)
Đó là chưa kể việc hay nói tục, nói trống không càng làm cho sự biến thái ngôn ngữ phát triển theo chiều hướng đáng ngại.
Nguyên nhân của sự biến thái
Nhờ sự đổi mới của Nhà nước nên hơn hai chục năm nay, Việt Nam bước vào giai đoạn mở cửa trong mọi lĩnh vực từ kinh tế đến văn hoá. Nếu trong thời kỳ bao cấp dân ta chỉ được tiếp xúc với văn hoá cộng đồng các nước XHCN, trong đó chủ yếu là văn hoá Liên Xô, Trung Quốc. Ngoại ngữ được học trong trường từ phổ thông đến đại học là Trung văn, Nga văn thì đến giai đoạn này nền văn hoá thế giới tràn ngập vào nước ta, trong đó với thế mạnh tiếng Anh là ngôn ngữ được sử dụng phổ cập trong giao tiếp và trong nhiều lĩnh vực đã dần dần có có vị trí quan trọng trong sự đào tạo, giáo dục của nước ta. Điều này cắt nghĩa vì sao tiếng Anh lại có ảnh hưởng mạnh mẽ ở nước ta.
Ngày nay, điện thoại di động, máy tính kèm theo hàng loạt những ứng dụng của các phương tiện này là Internet, nhắn tin, chát, trò chơi điện tử.., đã trở thành thông dụng được người Việt Nam, đặc biệt giới trẻ, ưa thích. Một trong những ứng dụng quan trọng ra đời là nhắn tin tất phải có một công nghệ nhắn tin kèm theo. Làm sao trong khoảng thời gian ngắn chuyển tải được lượng thông tin cần thiết đến người nhận là một yêu cầu. Đây chính là cơ sở để tạo ra số từ vựng nhắn tin, cũng đồng thời sinh ra sự biến thái của ngôn ngữ giao tiếp của giới trẻ nước ta. Sự chế biến cách viết trong nhắn tin cộng với việc sử dụng tiếng Anh đã thêm một lần làm gia tăng biến thái ngôn ngữ.
Ở bài viết này, tôi chưa nói nhiều đến sự hay nói tục của giới bạn trẻ như một mốt sành điệu mà tôi chỉ nói đến ảnh hưởng của lối nói trống không, cụt lủn không chỉ trong nhắn tin mà còn trong giao tiếp hàng ngày của giới trẻ. Nếu như ở một số ngoại ngữ phương Tây, ngữ điệu trong giọng nói khi dùng đại từ nhân xưng khẳng định thái độ tình cảm và cả thứ bậc xưng hô khác hẳn đại từ nhân xưng đa dạng của tiếng Việt có đầy đủ các thang bậc từ ông bà bố, mẹ, cô dì, chú bác... đến cả những đại từ nói lên sự khinh miệt hay tôn kính, gần gụi hay xa lạ... Đáng tiếc các bạn trẻ ít nhiều biết ngoại ngữ lại bị ảnh hưởng lối diễn đạt “vô nhân xưng” này nên thường đổ đồng cá mè một lứa trong xưng hô thường nhật.
Trong sự mở cửa chấp nhận sự hoà đồng thì bên cạnh những cái hay, cái tốt của các nền văn hóa, các trào lưu văn hoá trên thế giới, chúng ta cũng phải đối đầu với những gì độc hại, những gì không phù hợp với truyền thống, tập tục tính cách của dân tộc ta. Bên cạnh đó nền giáo dục nước trong thời gian qua dường như còn có lỗ hổng không nhỏ trong giáo trình đào tạo học sinh các cấp. Gíáo trình giáo dục các cấp của ta còn nặng về giáo dục kiến thức mà ít quan tâm đến việc giáo dục truyền thống, lịch sử, nhân cách đến đạo đức làm người cho học sinh... Phải chăng đây cũng là nguyên nhân sâu sa tạo ra sự biến thái đáng ngại của ngôn ngữ.
Cách đây gần một thế kỷ trong bài diễn thuyết bằng quốc văn của ông Phạm Quỳnh có câu nói nổi tiếng: “Truyện Kiều còn tiếng ta còn, tiếng ta còn nước ta còn”. Sự biến thái về ngôn ngữ đáng lo hiện nay chứng tỏ các nhà quản lý của nước ta chưa biết khơi gợi niềm tự hào về tiếng Việt, bảo tồn vốn quí báu của ngôn ngữ dân tộc. Sự chế biến tiếng Việt như hiện nay đâu chỉ thuần tuý ở sự xuống cấp trong ngôn ngữ mà nó còn là sự xuống cấp trong lối sống của một tỉ lệ không nhỏ người Việt trẻ.
Đáng buồn thay trong sự tác động để làm biến thái tiếng Việt lại có tác động không nhỏ của các nhà làm văn hoá. Gần đây việc không ít người cổ vũ cho thứ thơ viết và nghĩ lai căng rập theo cách viết và lối tư duy nước ngoài của đôi ba nhà thơ thạo ngoại ngữ cũng thật đáng giận. Đáng ra nhà thơ hơn ai hết phải làm cho ngôn ngữ dân tộc ngày càng trong sáng hơn, dân tộc hơn vậy mà... Tôi nhớ, nhà văn Mỹ nổi tiếng Herman Melville, tác giả hai tiểu thuyết lừng danh thế giới TypeeOmoo đã từng khuyên các nhà văn, nhà thơ Hoa Kỳ không nên viết như một người Anh, người Pháp. Ông khẳng định: “Các nhà văn chúng ta là nhà văn Mỹ... Thất bại trong việc sáng tạo ra cái độc đáo vẫn tốt hơn là thành công trong việc bắt chước”.
Vậy mà những câu thơ loằng ngoằng, bất chấp ngữ điệu, ngôn từ của tiếng Việt, cách nghĩ của dân tộc ta đã từng sáng bừng trong những trang viết của Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Bính... lại được ca ngợi, tán thưởng thì trách chi các cháu thanh, thiếu niên không từ tấm gương mờ đó mà làm hỏng tiếng Việt thân yêu của chúng ta bằng những trò ảo thuật trong ngôn ngữ của họ.
Nguyễn Hiếu

KHỔNG TỬ: TRÁNH NGƯỜI CHỨ KHÔNG TRÁNH ĐỜI

Khoa học và văn minh - ANTG cuối tháng (24/6/2012)
Thiên “Khổng Tử thế gia”, trong bộ “Sử ký”, Tư Mã Thiên có ghi lại cuộc trò chuyện giữa Tử Lộ và vị ẩn sĩ Kiệt Nịch. Khi biết Tử Lộ là người học trò yêu của Khổng Tử, Kiệt Nịch đã nói ngay: “Thiên hạ như nước chảy cuồn cuộn đều thế cả. Vả lại, ông theo một kẻ sĩ lo tránh người chi bằng theo một kẻ sĩ lo tránh đời”... Sau này, nghe Tử Lộ thuật lại câu nói đó, Khổng Tử đã bùi ngùi thốt lên: “Ta không thể sống cùng chim muông. Nếu thiên hạ có đạo thì ta cần sửa nó làm gì?!”.
“Nhu quyền”nhập thế
Làm kẻ sĩ, ai cũng cần phải lo thân. Nhưng lớn hơn nỗi lo đó phải là nỗi lo cho thiên hạ. Khổng Tử là người có nỗi lo này. Mà trong bất cứ thời đại nào cũng vậy, muốn góp sức mình lo cho thiên hạ thì kẻ sĩ gần như chỉ có một con đường duy nhất là phải nhập thế. Và Khổng Tử cũng đã chọn con đường này. Ông không lảng tránh thực tại dù giai đoạn mà ông sống (551 - 479 TCN) hoàn toàn không phải là “kỷ nguyên vàng” trong lịch sử Trung Hoa.
Ngay từ trẻ, trong một lần được gặp Lão Tử ở đất Chu, ông đã được bậc đàn anh minh triết và nhân đức tặng cho những lời gan ruột: “Kẻ thông minh và sâu sắc là gần cái chết vì họ khen chê người ta một cách đúng đắn. Kẻ giỏi biện luận, đầu óc sâu rộng làm nguy đến thân mình vì họ nêu lên cái xấu của người khác. Kẻ làm con không có cách gì để giữ mình. Kẻ làm tôi không có cách gì để giữ mình”... Biết vậy nhưng Khổng Tử vẫn dấn thân vào những nẻo đường cát bụi theo cách của riêng mình, lấy “nhu” thuần “cương”...
Lớn lên trong một gia cảnh nghèo khó, chỉ nhờ những nỗ lực tu thân không mệt mỏi mà Khổng Tử mới vươn lên trở thành một danh trí đường thời. Thông tuệ nhưng ông không bao giờ kiêu căng: “Ta chẳng phải sinh ra đã biết tất cả, là do ưa thích đạo cổ xưa, cần mẫn tìm học hỏi mà nên”. Tự trọng nhưng ông không bao giờ cố chấp. Ông từng nói: “Bá Di, Thúc Tề không nhớ oán giận cũ, nên hiếm người giận họ”. Có lẽ chính nhờ thế nên ông từng được rất nhiều bậc vương giả trọng dụng, hầu như đến đâu ông cũng được vời vào cung cấm để bàn chính sự.
Năm 56 tuổi, ông còn được Lỗ Định Công đưa lên chức tướng quốc... Khi một môn đệ của ông là Tử Cầm đã hỏi bạn đồng môn là Tử Cống về bí quyết khiến Khổng Tử hay được vời vào tham dự chính sự, nhờ “do thầy cầu xin hay do người ta yêu cầu” thì Tử Cống đã lý giải như sau: “Thầy Khổng có đức tính ôn, lương, cung, kiệm, nhường nhịn nên được như vậy. Cách cầu việc của thầy khác với lối xin việc của người khác”.
Gieo hạt nhân nghĩa
Không (không thể) tránh đời không hợp mà chỉ (chỉ có thể) tránh được người không hợp nên Khổng Tử chủ trương truyền bá những tiêu chí nhân văn để thiên hạ ngày một nhiều hơn những người có quyền mà vẫn có đức theo các tiêu chí mà ông suy tôn. Trong cách nhìn của ông, không nhất thiết phải đứng ra cầm quyền mới là làm chính trị vì Kinh Thượng Thư viết rằng: “Ta chỉ thực hiện đạo hiếu, sống với anh em. Phổ biến đạo ra khắp chính trường, cũng là làm chính trị rồi, cứ gì phải ra làm chính trị?”.
Theo Khổng Tử, một xã hội lành mạnh phải là nơi mà mỗi người trong chúng ta hành xử theo đúng vị trí đang giữ. Khi Tề Cảnh Công hỏi Khổng Tử  về việc làm chính trị thì phải như thế nào, ông đã đáp:
- Vua phải theo đúng đạo làm vua, tôi phải theo đúng đạo làm tôi, cha phải phải theo đúng đạo làm cha, con phải theo đúng đạo làm con! Muốn mọi người làm theo đúng phận sự của mình thì người cầm quyền cũng cần phải biết cách sắp xếp mọi người vào đúng chỗ của họ.
Khi Lỗ Ai Công hỏi cách làm sao cho dân phục, Khổng Tử đã nêu ra rất ngắn gọn nguyên tắc mà có lẽ ở bất cứ đâu, trong bất cứ thời nào cũng có thể làm khẩu hiệu của công tác tổ chức cán bộ: “Bổ nhiệm người ngay thẳng trên kẻ ác, ắt dân phục. Xếp kẻ ác trên người ngay thẳng thì dân không phục”.
Theo cách nhìn của ông, trong một xã hội, một quốc gia, “ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”, mọi sự hay hay dở đều chủ yếu phụ thuộc vào cách hành xử của người cầm quyền, của sếp trưởng. Xưa nay, nhà cầm quyền nào cũng cần làm mọi việc để cho xã hội mà mình cai trị được ổn định, vì không an cư thì không thể lạc nghiệp được. Mà muốn xã hội ổn định thì người cầm quyền phải có đức, phải hành xử theo các nguyên tắc đạo đức. Ông nhắc nhủ các quân vương: “Cầm quyền phải có đức, giống như sao Bắc Đẩu ở nơi cố định cho các ngôi sao vây quanh”. Khổng Tử chủ trương nhân trị: “Khổng Tử nói: Lãnh đạo dân bằng pháp luật đều dùng hình phạt, dân có thể tránh được sai phạm nhưng mất lòng tự trọng. Lãnh đạo dân bằng đức độ và lễ khiến người ta biết xấu hổ mà tự cảm hóa”.
Tất nhiên, ở thời hiện đại, chúng ta đều hiểu rằng, nếu chỉ làm theo lời Khổng Tử không thôi thì không chỉ không đủ mà còn dễ khiến xã hội trở nên xộc xệch bởi tâm trạng hoàn toàn có thể “sớm nắng chiều mưa” hay tư lợi của người cầm quyền vì không có những cột mốc vững chãi và nghiêm khắc làm chuẩn mực. Thế nhưng không phải vì thế mà tư tưởng nhân trị lại hoàn toàn bị phá giá vì nói cho cùng, không hướng tới một cứu cánh nhân văn thì mọi nỗ lực xây dựng và phát triển xã hội loài người đều có thể hóa thành lợi bất cập hại.
Nói được làm được
Khi Tử Lộ hỏi về người quân tử, thì  Khổng Tử nói: “Tu dưỡng mình kính cẩn”. Tử Lộ lại hỏi tiếp: “Như thế là đủ ư?” thì lời đáp là: “Tu dưỡng mình để làm yên người khác”. Tử Lộ lại lặp lại câu hỏi thứ hai thì Khổng Tử mới nói: “Tu dưỡng bản thân để làm yên trăm họ. Việc này khó đến nỗi vua Nghiêu, vua Thuấn còn khó làm được”.
Với chủ trương hành đạo rồi mới truyền đạo (sách Luận ngữ chép: “Tử Cống hỏi về quân tử. Khổng Tử đáp: Trước hết, thực hành lời mình nói, sau mới nói ra”), nên Khổng Tử trong bất cứ tình huống nào của cuộc đời, dù oái oăm đến mấy, đều luôn giữ được một tinh thần lạc quan. Chủ trương “cầu việc” của ông  giữa thói đời đen bạc thể hiện trong câu nói: “Chẳng lo buồn vì không có địa vị, chỉ lo không có đức tài xứng với địa vị ấy. Không cần lo người khác không hiểu mình, nên lo làm sao có năng lực khiến cho người khác biết mình”.
Thông thường, Khổng Tử luôn giữ thái độ khiêm nhường và không bao giờ quá cáu giận khi những lời khuyên bảo anh minh của ông không được những đối tượng cần tới chúng thực hiện. Nhưng khi đã cầm cờ trong tay thì ông cũng thừa đủ kiên quyết để thực hiện đúng theo những nguyên tắc mà ông đã chủ trương. Được nắm quyền tướng quốc của nước Lỗ, Khổng Tử thực sự góp phần làm cho tình hình ở đây thay đổi một cách căn bản.
Mặc dù là người nhân nghĩa nhưng ông cũng không ngại ra lệnh giết quan đại phu mắc tội làm rối loạn chính sự nước Lỗ là Thiếu Chính Mão. Những biện pháp cai quản đất nước nghiêm túc của ông đã mau chóng dẫn tới kết quả nhỡn tiền. Sách Sử ký của Tư Mã Thiên kể: “Sau khi (Khổng Tử) tham dự chính quyền trong nước ba tháng, những người bán cừu bán lợn trong nước không dám bán thách, con trai con gái ở trên đường đi theo hai phía khác nhau, trên đường không nhặt của rơi. Những người khách ở bốn phương đến thành ấp không cần phải nhờ đến các quan, bởi vì người ta đều xem họ như người trong nhà...”.
Người trước, mình sau
Khổng Tử đã tổng hợp lại rất nhiều quy tắc dành cho các bậc quân tử, tức là hình mẫu mà cả người trên lẫn người dưới trong xã hội đều muốn noi theo hoặc trở thành người quân tử. Khổng Tử luôn đặt vai trò người quân tử trong xã hội lên vị trí chủ đạo, coi đây là động lực phát triển chính yếu của sự phát triển. Hình mẫu bậc quân tử trong cách nhìn của ông như sau: “Quân tử ăn không cầu no, chỗ ở không cầu an toàn quá mức, làm việc minh mẫn mà lời nói thận trọng, là kẻ có đạo chính đáng, có thể gọi là người hiếu học”. Tử Cống hỏi: “Nghèo khổ mà không nịnh bợ, giàu có mà không kiêu ngạo, như vậy được chưa?”, Khổng Tử đáp: “Như vậy là được, nhưng không bằng nghèo mà lạc quan, giàu mà chuộng học lễ nghĩa”. Cũng phải nói rằng, Khổng Tử không bao giờ chủ trương học vẹt, mà ông luôn đề cao cách học có suy nghĩ. Ông nói: “Học mà không suy nghĩ sẽ trở nên rối rắm, chỉ suy nghĩ mà không học sẽ rất mỏi mệt”. Ông cũng từng nói với môn đệ tên là Tử Hạ: “Ngươi nên trở thành học trò quân tử, không nên trở thành học trò tiểu nhân”. Ông cũng nói: “Đức hạnh mà không tu dưỡng, học không giảng giải, thấy việc nghĩa không làm, mắc điều sai không chịu sửa chữa, đó là những nỗi lo của ta”.
Khổng Tử có cách nhìn rất chuẩn mực về lối sống lành mạnh của người quân tử: “Quân tử nói năng chậm rãi, thực hành thì nhanh nhẹn”.
Theo ông, bậc quân tử luôn phải biết phê bình và tự phê bình khi đặt mình trước những kẻ tiểu nhân: “Người quân tử chỉ biết điều nghĩa, kẻ tiểu nhân chỉ biết điều lợi... Quân tử nghĩ đến đạo đức, tiểu nhân nghĩ đến đất đai... Quân tử coi trọng hình thức phép tắc, tiểu nhân chỉ mong ân huệ...”. Và trước cả người hiền: “Nhìn thấy người hiền thì noi theo, thấy kẻ không hiền thì xem xét lại mình”. Ông chủ trương: “Quân tử không cần tranh đua, có thể tranh đua khi bắn cung thôi. Vái chào khi bước lên bắn, xong ngồi uống rượu nâng chén mừng nhau - đó mới chính là lối tranh đua của quân tử”.
Khổng Tử nhân ái nhưng không phải là người dễ dãi với cái xấu. Tử Cống hỏi: “Người quân tử có ghét ai không?”, Khổng Tử nói: “Có ghét. Ghét kẻ đi nói xấu người khác, ghét cấp dưới gièm pha cấp trên, ghét người dũng mà không giữ lễ, ghét người quả quyết mà không thông hiểu lý lẽ...”. Còn môn đệ Tử Cống thì lại ghét “kẻ hay rình mò người khác mà tự nhận người trí, ghét kẻ thiếu khiêm tốn mà nhận mình là dũng, ghét người bới móc chuyện riêng tư người khác mà tự nhận mình là liêm...”.
Khổng Tử là bậc quân tử không chỉ của một thời mà của muôn đời. Có điều, khi tóc ngả màu sương thì câu hát quen thuộc của ông vẫn là: “Miệng của đàn bà kia có thể làm cho ta bỏ chạy/ Những người đàn bà kia đến thăm có thể làm cho nước mất nhà tan/ Ta đi lang thang phiêu bạt cho đến hết đời”. Âu đó cũng là số phận thường gặp của những bậc hiền triết.
Lưu Hùng Văn

6 tháng 8, 2012

KHÔN NHÀ DẠI CHỢ

Trần Đăng Khoa
Mấy ngày gần đây, trong những chuyện phiếm bên quán nước vỉa hè, hay trên các hãng truyền thông, đều xôn xao những chuyện không lấy gì làm đẹp, trong phòng khám, phòng điều trị tư nhân có thày thuốc Trung Quốc. Điều đáng sợ hơn là đã xảy ra cả chuyện chết người. Nạn nhân là một phụ nữ chẳng có bệnh tật gì nghiêm trọng. Một cái chết vu vơ. Chết chỉ vì bị xốc khi truyền nước. Đó là một sơ xuất rất tối thiểu mà ngay cả một trạm xá cấp xã, cấp phường cũng khó vấp phải. Chúng ta không nghi ngờ nền y học Trung Quốc, đặc biệt là Đông y. Tuy nhiên, những thầy thuốc giỏi, những bác sĩ chuyên gia đích thực của họ đâu có sang ta để hành nghề. Làm việc trong mấy phòng khám tư nhân ở ta, có khi chỉ là mấy ông lang băm bán thuốc dạo, hay vài cậu sinh viên non choẹt vừa mới ra trường. Tay nghề không. Thực tiễn không. Kinh nghiệm không. Thế thì tránh sao được chuyện rủi ro, kể cả những cái chết bi thảm, những cái chết vu vơ rất không đáng có.
Điều chúng ta quan tâm, là tại sao những phòng khám tư nhân, với cái giá điều trị ngật ngưỡng ở... trên giời mà vẫn có bao nhiêu người nghèo sẵn sàng dồn cơ nghiệp và cả tính mạng của mình vào đấy để rồi cuối cùng chuốc lấy sự phiền toái, bùng nhùng, cả những cái chết vô cùng thảm khốc? Tất nhiên, ai rồi cũng sẽ chết vì bệnh. Nhưng những bệnh nhân đáng thương ấy không phải chết vì bệnh tật, mà vì bệnh... sùng ngoại. Cái gì của nước ngoài cũng tốt. Đến cả hàng hóa, vật dụng, hàng xách tay, hàng... ngoài luồng cũng đều... tốt cả. Còn những gì của ta cũng đều rẻ rúng, “hâm đơ”. Hãm. Từ hàng hóa, vật dụng, đến cả... con người. Các Hoa hậu của ta, phần lớn cũng sắm... chồng ngoại. Thế thì trách gì mấy bác nông dân chân lấm, tay bùn, bị nhức đầu, sổ mũi, hay cắt trĩ, truyền nước..., toàn những bệnh đơn giản, cũng phải kén bàn tay của bác sĩ ngoại, dù sự kén chọn ấy có phải trả cái giá ngất nghểu ở cái xứ... cung giăng thì cũng cứ chơi. Không đủ tiền thì bán đất cát, nhà cửa. Tính mạng còn chả tiếc thì tiếc gì mấy chục... triệu bọ. (Giá cắt trĩ ở phòng khám tư có thầy thuốc Trung Quốc là 20 triệu đồng).
Thật hẩm hiu cho nền y học “nội địa”. Trong khi đó, chúng ta có rất nhiều thày thuốc giỏi, như Giáo sư Tôn Thất Tùng, Giáo sư Tôn Thất Bách, Bác sĩ Nguyễn Trọng Nhân, Bác sĩ Nguyễn Lân Việt, Lương y Bành Khừu, Bác sĩ Nguyễn Tài Thu, bác sĩ trẻ Nguyễn Lân Hiếu. Bác sĩ Hiếu là con trai Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân Nguyễn Lân Dũng và Thày thuốc Nhân dân, Đại tá hàm Tướng Nguyễn Kim Nữ Hiếu, Phó Viện trưởng Viện 108 Quân đội. Bác sĩ Lân Hiếu mổ tim thuộc hạng cự phách. Một học giả nước ngoài bảo tôi: “Về y học, chúng tôi chỉ hơn các anh máy móc và điều kiện làm việc thôi. Còn tài năng, kinh nghiệm, và đặc biệt là bàn tay khéo léo, chuẩn xác trong kỹ nghệ mổ xẻ, các bác sĩ của các anh thật đáng kính nể!”.
“Người Việt vốn dĩ có tinh thần cảnh giác cao độ. Kinh nghiệm từ những năm chiến tranh với cái giá quá đắt phải trả đã cho họ đức tính ấy”. Giáo sư J.Berke, một nhà Việt Nam học người Đức đã từng có nhận xét về chúng ta như vậy. Ông đã bảy lần sang thăm Việt Nam. Để khám phá Việt Nam, theo ông, chỉ cần có một công cụ, đó là cái xe đạp. Mà xe đạp thì rất sẵn. Chỉ bỏ ra hơn chục dolla là đã có cả một chiếc xe đạp rồi. Đi xe đạp Việt Nam rất hay bị xịt lốp. Nhưng không sao. Xe xịt ở bất cứ chỗ nào thì cứ tạt vào rệ đường. Thế là lập tức ở đó sẽ có ngay một ông thợ bơm vá xe đạp. Mà những ông thợ này rất đặc biệt. Họ không phải người bình thường. Họ là những anh hùng trong những năm chiến tranh. Đó là pho sử sống của cả một thời đại. Nhưng tốt nhất là cứ để họ tự nói. Người Việt sởi lởi lắm. Họ chẳng giữ được cái gì ở trong bụng. Nhưng mà đừng hỏi. Nếu cứ thật thà hỏi, hoặc tỏ ý quan tâm, lập lức họ sẽ nghi ngay mình là một thằng gián điệp quốc tế. Với người Việt, tội ác tày trời là tội làm gián điệp. Người Việt nhạy cảm lắm. Cảnh giác lắm, nên nhìn đâu cũng thấy địch!
Nhận xét của J.Berke như một chuyện đùa. Tuy thế, cũng không phải không có những điều khiến ta phải nghĩ ngợi. Một cây bút có tiếng chịu khó tìm tòi, vừa có tác phẩm mới, với giọng điệu hơi lạ, dù chỉ đơn thuần là một cách làm mới mình, để mình không giống với người khác. Vậy mà ông bạn tôi cứ truy hỏi: Cái cậu tác giả ấy là người thế nào? Nó ăn phải cái bả của địch hay do địch cài cắm? Tôi bảo: Chả có địch nào chui được vào hàng ngũ của những người từng vào sinh ra tử. Mà cơ quan ấy cũng là mảnh đất lành. Một môi trường trong veo làm sao có chỗ cho cái ác nảy nở. Nếu cậu không tin, cậu cứ cử về đấy vài ba thằng gián điệp. Tớ bảo đảm với cậu chỉ sau mấy tháng, chúng sẽ thành lao động “tiên tiến” hay cá nhân “bốn tốt”!
Ông bạn tôi bắt đầu cảnh giác. Rồi anh nghi ngờ cả tôi. “Không khéo thằng cha này cũng bị địch tiêm nhiễm rồi cũng nên”. Bà con mình thế đấy. Có thể cảnh giác, nghi ngờ với cả con cái, anh em ruột thịt trong nhà, nhưng lại nhẹ dạ cả tin với thiên hạ. Mà ai nói gì cũng tin. Các cụ bảo đó là bệnh “Khôn nhà dại chợ”.
Còn nhớ những năm 1997 - 1998, thương lái Trung Quốc sang ta mua mèo với giá cao, thế là vì cái “giá cao” ấy, mèo gần như tuyệt diệt, nông dân phía Bắc phải chịu đại dịch chuột hoành hành, khiến cả mùa màng xiêu điêu. Rồi những năm 2002 - 2003, thương lái Trung Quốc cũng lại sang mua móng trâu với giá cao. Cũng chẳng biết họ mua móng trâu làm quái quỷ gì mà mua với giá cao thế. Ở thời điểm ấy, cả chú trâu to lớn vật vã như thế mới có 5 triệu bạc mà chỉ riêng một cái móng trâu cũng đã gần một triệu bạc rồi. Thế là bà con lột móng trâu đem bán. Kết cục là trâu bò chết hàng loạt, ảnh hưởng nặng đến sức kéo của bà con nông dân nghèo phía Bắc. Để tiêu diệt cả con trâu, họ chỉ chi khoản tiền bằng đúng một chiếc móng. Thế thì chiếc móng trâu mà thương lái Trung Quốc thu gom là đắt hay rẻ đây?
Chưa hết. Hãy nhớ lại chuyện thu gom ốc bươu vàng, rồi thu gom đỉa của thương lái Trung Quốc mấy năm vừa qua, chúng ta cũng đã phải trả một cái giá đắt đến mức như thế nào? Từ các tỉnh phía Bắc, phong trào thu mua đỉa đã lan đến Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam. Nhiều người dân Hóc Môn còn đứng ra thu gom đỉa từ khắp các vùng lân cận. Thấy lợi, dễ làm mà giá cao, nhiều hộ dân Tây Ninh còn nuôi đỉa ngay trong ao hồ để mang bán cho thương lái Trung Quốc. Ngoài việc “sản xuất” đỉa, sản xuất ốc bươu vàng, họ còn đi thu mua của các hộ quanh vùng. Thương lái Trung Quốc mua gì, họ thu gom thứ ấy. Thương lái đặt với số lượng lớn rồi đột ngột “mất tích”. Mà đỉa với ốc bươu vàng sinh sản rất nhanh. Trời mưa, đỉa theo nước ùa vào cả nhà dân. Không phải chỉ trẻ con mà người lớn cũng sợ khiếp vía. Theo các nhà Động vật học, “đỉa là loài rất nguy hiểm do dễ sinh sôi nảy nở trong mọi điều kiện. Đặc biệt, ở những vùng đồng ruộng chiêm trũng. Trong khi đó, để tiêu diệt một con đỉa lại rất khó khăn, ngay cả việc đốt cháy, nếu không cháy hết còn sót lại một vài tế bào, gặp điều kiện thuận lợi cũng có thể phát triển thành một con đỉa bình thường. Đặc biệt, khi người dân đua nhau nuôi đỉa thì không thể kiểm soát được, đỉa tràn ra môi trường, trở thành hiểm họa, giống như hiểm họa ốc bươu vàng, chuột hải ly, rùa tai đỏ những năm trước đây”.
Thật quái quỷ! Và rồi còn ghê rợn hơn nữa là việc thu gom chè bẩn cũng lại của Thương lái Trung Quốc trong khu vực các tỉnh phía Bắc. Chỉ tính riêng ở Văn Chấn, Yên Bái, có thể nói, người người sản xuất chè. Nhà nhà sản xuất chè. Mỗi hộ gia đình chỉ bỏ ra 4 triệu đồng mua 2 máy vò chè và sàng chè, là đã thành một xưởng sản xuất chè tại gia. Chỉ sau 1 tuần sản xuất chè bẩn, họ đã thu hồi toàn bộ vốn. Còn sau thì lãi. Ở Hàm Yên, Tuyên Quang, còn có chuyện sản xuất chè bằng cách trộn phân lân hoặc nước bùn đất vào búp chè tươi già, qua công đoạn vò, phơi, được loại chè khô vừa nặng, vừa dẻo, cánh chè xoăn và xanh. Có một điều rất lạ, chè bẩn làm ra bao nhiêu cũng được thương lái Trung Quốc thu gom hết. Họ còn mua với giá cao. Thương lái Trung Quốc còn đến tận nhà hướng dẫn làm chè bẩn rồi bao tiêu trọn gói. Chè bẩn được đóng bao, đóng gói chở đi kìn kìn. Họ mua chè bẩn với số lượng lớn như thế về để làm gì thì chỉ có trời mới biết. Khi Trung Quốc đăng cai Đại hội Olympic, trước con mắt của bạn bè quốc tế, họ mời ông Chủ tịch UBND tỉnh Hà Giang sang cùng chứng kiến cảnh họ đốt chè, với lý do chè Việt bẩn không đảm bảo an toàn thực phẩm. Vậy thì còn có quốc gia nào giám ký kết, đặt mua. Vậy là chỉ sau 6 tháng, toàn bộ ngành chè xiêu điêu. Hàng loạt doanh nghiệp gắn với chè bị phá sản.
Năm 2007, Tập đoàn Bưu chính viễn thông của chúng ta cũng thiệt hại hàng chục triệu USD khi bị cắt trộm mất 11 km cáp quang. Nhiều người cứ thắc mắc, không hiểu kẻ cắp cắt trộm cáp quang để làm gì, bởi chất liệu này không thể bán phế liệu được. Sau đó, khi Công an Bà Rịa - Vũng Tàu bắt được “cáp tặc” Nguyễn Thị Bích Phượng, từ lời khai của thị, mọi người mới tá hỏa: Hóa ra thị tổ chức cắt cáp để bán cho thương lái Trung Quốc. Thị cũng không hiểu thương lái Trung Quốc mua hàng đống cáp quang vụn của thị để làm cái quái quỷ gì?
Cũng may, thương lái Trung Quốc chỉ gom thu chè bẩn, cáp quang, đỉa ốc, móng trâu... Họ mà thu gom hài cốt thì không khéo khối người đào cả mồ mả, ông bà tổ tiên đem bán. Thật đáng sợ.
Bây giờ thì tất cả đã rõ. Bà con ta quá nêu cao cảnh giác, toàn cảnh giác nghi ngờ, rồi ứng xử hà khắc với con em ruột thịt trong nhà, nhưng lại ngờ nghệch, cả tin với người ngoài thiên hạ, cũng vì những lợi ích cỏn con trước mắt, nên bị mấy anh nghịch tặc phá hoại nó lừa. Và lừa rất manh mún, tiểu nhân, nhưng lại rất bài bản, có hệ thống với mọi tính toán rất kỹ lướng, và rồi hậu quả để lại cho chúng ta thì vô cùng nặng nề và không hề manh mún một chút nào.
Ôi! Người anh em Trung Quốc, “môi hở răng lạnh”, người luôn nêu cao “mười sáu chữ vàng” mà lại hiện hình rúm ró như thế sao? Tôi nói điều này cũng vì rất yêu đất nước anh em Trung Quốc. Đất nước của Lý Bạch, Đỗ Phủ, Tào Tuyết Cần, Lỗ Tấn... cùng với nền văn hóa vĩ đại mà tôi hằng ngưỡng mộ từ thuở ấu thơ! Chính vì yêu Đất nước Trung Quốc, nên chúng ta càng đau đớn, khi những kẻ giả danh người Trung Quốc, đã bôi bẩn đất nước Trung Quốc anh em vĩ đại, nhất là mấy anh Hải tặc đã bịa ra cái đường lưỡi bò, hòng thôn tính Trường Sa, Hoàng Sa và cả Biển Đông ngút ngát kia. Trung Quốc là một quốc gia giầu có, hùng mạnh. Sự bật dậy của người anh em thân thiết trong những năm gần đây làm chúng ta mừng rỡ vô cùng. Thế kỷ XXI mà chúng ta đang sống đây sẽ là thế kỷ của Trung Quốc. Hàng hóa Trung Quốc, từ đồ tiêu dùng vụn vặt cho đến những mặt hàng cao cấp nhất cũng đã phủ khắp thế giới. Chẳng cần đến Trường Sa, Hoàng Sa và cả Biển Đông, Trung Quốc cũng vẫn là một quốc gia hùng mạnh vào bậc nhất thế giới, vậy thì việc gì phải vơ váo những thứ không phải của mình. Trường Sa, Hoàng Sa là của Việt Nam. Đó không phải chúng ta tự tuyên bố, mà chủ quyền đó đã được chính người Pháp và bạn bè Quốc tế xác định từ mấy trăm năm trước. Trong bản đồ địa giới, hải giới của Trung Quốc, từ đời Nhà Thanh và trước nữa cho đến năm 1004 cũng không có Hoàng Sa, Trường Sa và cái đường lưỡi bò ma quỷ. Đấy là những bằng cứ hùng hồn, phủ nhận những trò tháu cáy của những kẻ tiểu nhân, rất không hảo hán. Việc làm đó chẳng biết có thu được lợi lộc gì không, vì không dễ làm được những điều khuất tất ngang ngược nhất là trong thời đại ngày nay, nhưng trước mắt, họ đã tự cô lập mình trước cộng đồng quốc tế, đặc biệt là với các nước trong khu vực, cùng thở chung một bầu khí quyển Biển Đông. Và nói như các cụ ta xưa, đó cũng lại là chuyện: “Khôn nhà dại chợ!”
Theo Blog Lão Khoa, 29/7/2012

ĐẢNG LÃNH ĐẠO LÀ TẠO ĐỘNG LỰC CƠ BẢN CHO QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI

Thân gửi anh Lân Dũng!
Đây là bài tôi mới viết. Gửi anh - một đại biểu Quốc hội nhiều khóa, có uy tín trong cử tri cả nước, đọc cho “vui”. Nếu có thể thì anh lại cho tôi góp chuyện cùng bà con Xóm Lá. Nhờ Blog của anh mà tôi lại có thêm một số người bạn mới đấy. Một sân chơi thật vui và bổ ích.
Cảm ơn và chúc anh nhiều sức khỏe!
Trần Đình Huỳnh
ĐẢNG LÃNH ĐẠO LÀ TẠO ĐỘNG LỰC CƠ BẢN CHO QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI
Đảng khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới nhằm chấn hưng đất nước. Đổi mới là một thời kỳ cách mạng làm biến đổi diện mạo và thân phận của cả dân tộc ta trong thời đại mới. Đảng Cộng sản Việt Nam đã thể hiện quyết tâm ấy qua các Nghị quyết của 7 kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc (kể từ sau khi thống nhất đất nước tới nay). Nhưng để biến Nghi quyết, Cương lĩnh thành hiện thực thì Đảng không bao giờ được quên lời dặn của Hồ Chủ tịch, rằng: “Phải biến quyết tâm của Đảng thành quyết tâm của nhân dân” (Hồ Chí Minh toàn tập, T.11, H.1996, tr.30). Nhưng nhân dân không chỉ quyết tâm bằng các chỉ thị, mệnh lệnh của Đảng và Nhà nước mà họ chỉ thực sự quyết tâm khi được thực sự làm chủ vận mệnh của mình, tức là họ được sống trong một thể chế dân chủ, dân chủ thực tế chứ không phải là dân chủ hình thức. Dân chủ là động lực cơ bản nhất của quá trình đổi mới. Sự lãnh đạo của Đảng chỉ có hiệu quả khi chính bản thân Đảng là một tổ chức dân chủ và nhờ có tổ chức ấy Đảng tạo được động lực cơ bản cho bản thân mình và qua đó tạo được động lực cơ bản cho cho toàn thể nhân dân.
1. Dân chủ - nói nôm na là quyền làm chủ mọi mặt của đời sống con người. Quyền làm người, tất nhiên, cơ bản nhất là quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Nhìn vào lịch sử phát triển của nhân loại, ta càng thấm thía dân chủ hóa mọi mặt đời sống xã hội vừa là mục đích, vừa là động lực cơ bản nhất trong bất cứ thời đại nào, nhất là thời đại chúng ta đang sống. “Không có gi quý hơn độc lập, tự do”, “Dẫu có phải đốt cháy cả dẫy Trường Sơn cũng quyết phải giành cho được độc lập, tự do cho Tổ quốc”... là động lực cơ bản của nhân dân Việt Nam trong mấy cuộc kháng chiến do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Trong quá trình đổi mới toàn diện đất nước hiện nay, hơn bất cứ khi nào, Đảng cầm quyền cần phải nhận thức sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh: “Đem sức ta mà giải phóng cho ta”, “công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân”... để quyết tâm thực hiện dân chủ hóa mọi mặt đời sống xã hội, vì chỉ có như vậy Đảng mới hiện thực hóa được những khẩu hiệu tốt đẹp, những ước muốn thành tâm đã từng được ghi trên các văn kiện của 7 kỳ Đại hội, đã trải nghiệm một thời gian dài trên 3 thập kỷ mà cho tới nay đường tới mục tiêu không chỉ gian nan, thách thức mà thậm chí đang còn đứng trước cả những nguy cơ!
Hồ Chí Minh đã từng nói rằng, giành được độc lập rồi thì giao chính quyền cho số đông nhân dân, phải xây dựng nước ta thành một nước hoàn toàn độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh. Tuy nhiên từ khi thống nhất đất nước (1975) tới nay: “Dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ. Quyền làm chủ của nhân dân ở một số nơi, trên một vài lĩnh vực còn bị vi phạm. Việc thực hành dân chủ còn mang tính hình thức... Chủ trương quan điểm của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc, về quyền và lợi ích của các giai cấp, tầng lớp nhân dân chưa được thể chế đầy đủ thành pháp luật” (Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính trị Quốc gia, H.2011, tr.171)
Dường như không ít các nhà lãnh đạo khi đã nắm quyền lực trong tay, đã có một đời sống quá chênh lệch so với đời sống của đại bộ phân dân chúng cần lao (điều này chính Mác đã thể hiện sự lo lắng của mình khi ông đề cập đến lương bổng của những công chức Nhà nước dưới chính quyền do giai cấp vô sản lãnh đạo) nên đã lãng quên câu nói của Hồ Chí Minh, mà theo tôi, đó là lời cảnh báo cho sự sống còn của chế độ: “Nếu nước độc lập mà dân không được hưởng quyền tự do, hạnh phúc thì độc lập cũng không có ý nghĩa gì” (Hồ Chí Minh toàn tập, T4, H.1995, tr.56). Vì vậy, dân chủ hóa mọi mặt của đời sống xã hội ở nước ta hiện nay đang là đòi hỏi cấp bách, nó đang trở thành động lực cơ bản nhất có vai trò quyết định sự thành bại của quá trình đổi mới đất nước.
Dân chủ chính trị là tiền đề cho dân chủ về kinh tế, văn hóa. Trong một xã hội được mệnh danh là dân chủ thì dân chủ chính trị phải được thể hiện ở quyền tự do ứng cử và bầu cử vào cơ quan quyền lực Nhà nước; quyền quyết định cuối cùng đối với Hiến pháp. Hiến pháp ấy phải là bản khế ước xã hội của nhân dân, giao quyền, ủy quyền cho cơ quan Nhà nước để đảm bảo rằng: Nhà nước ấy thực sự là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nhà nước ấy phải là Nhà nước pháp quyền, tức là trong xã hội Đảng cầm quyền và Nhà nước phải đặt mình dưới pháp luật, thượng tôn pháp luật và tuân thủ pháp luật. Việt Nam là nước do một Đảng chính trị - Đảng Cộng sản Việt Nam - lãnh đạo và duy nhất cầm quyền. Do vậy dân chủ trong Đảng lại trở thành tiền đề của thực hành dân chủ chính trị ở nước ta. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh thì thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng là bản chất văn hoá và là nền tảng tinh thần của một Đảng cách mạng chân chính, đồng thời là tiêu chí để phân biệt Đảng với mọi đảng chính trị khác. Dân chủ là của cải tinh thần, là nguồn gốc của sức mạnh để Đảng trở thành người đại diện cho trí tuệ, đạo đức, lương tâm và danh dự của cả dân tộc. Đảng đã và đang lãnh đạo bằng đường lối, chủ trương, chính sách và công tác tổ chức cán bộ. Đường lối, chủ trương, chính sách đòi hỏi phải có sự vận dụng sáng tạo và phát triển lý luận cách mạng tiên tiến vào việc nghiên cứu kinh nghiệm thực tế trong nước, kinh nghiệm các địa phương, cơ sở, đồng thời phải có nhãn quan chính trị sắc sảo, am hiểu tinh tường thời cuộc, trong khu vực và toàn cầu. Một người hay một nhóm người không thể làm tốt việc đó mà phải bằng trí tuệ chung của toàn Đảng và sự tham gia rộng rãi của toàn dân. Dân chủ thảo luận để hoạch định đúng các quyết sách chính trị, kinh tế, văn hoá, quốc phòng, an ninh, tóm lại là toàn bộ chính sách nội trị và ngoại giao trong giai đoạn khó khăn hiện nay chỉ có thể giải quyết đúng thông qua con đường dân chủ trong Đảng và dân chủ trong xã hội. Tổ chức bộ máy và nhân sự quốc gia hiện nay, trên thực tế đều do Đảng lãnh đạo,quyết định và quản lý. Với sứ mệnh cao cả lãnh đạo và chịu trách nhiệm trước tiên đối với vận mệnh quốc gia như thế, thì như trên đã nói, sự hiểu biết của một hay một nhóm người là rất có giới hạn.
Ngay thiên tài như Hồ Chí Minh mà Người cũng không bao giờ tự cho mình là hiểu biết đầy đủ mọi việc, thậm chí Người còn thẳng thắn cho rằng so với tri thức của các nước tiên tiến “thì chúng mình dốt lắm. Tôi cũng dốt lắm”. Người nói: “...Người lãnh đạo không nên kiêu ngạo, mà nên hiểu thấu. Sự hiểu biết và kinh nghiệm của mình cũng chưa đủ cho sự lãnh đạo đúng đắn. Vì vậy, ngoài kinh nghiệm của mình, người lãnh đạo còn phải dùng kinh nghiệm của đảng viên, của dân chúng, để thêm cho kinh nghiệm của mình” (Hồ Chí Minh toàn tập, T.5, H.1995, tr.285). Hồ Chí Minh đã viết từ khi Người sáng lập Đảng (tháng 02/1930) như sau: “Bất cứ về vấn đề nào, đảng viên đều phải hết sức thảo luận và phát biểu ý kiến, khi đa số đã nghị quyết thì tất cả đảng viên phải phục tùng mà thi hành” (Hồ Chí Minh toàn tập, T.3, H.1995, tr.7). Có lẽ hơn bất cứ thời kỳ nào, hiện nay mọi công việc của Đảng, trong tất cả các cấp, các ngành, từ Trung ương đến cơ sở, chúng ta cần phải cùng nhau nhắc lại và đối chiếu, tự hỏi xem mình đã làm theo lời chỉ dẫn trên của Người như thế nào? Vì sao nhiều hội nhưng không nghị, nhiều thành viên tham dự không hăng hái nhiệt tình, thẳng thăn thảo luận mà để mãi tình trạng trong hội nghị im tiếng, ngoài hội nghị mới thì thào, thậm thụt, bàn tán? Tại sao đã có Nghị quyết mà vẫn còn không ít cán bộ, đảng viên, kể cả người đã giơ tay biểu quyết, không nghiêm chỉnh thi hành? Rõ ràng đây là một vấn đề lớn, đang có tính thời sự của Đảng (và cũng là đòi hỏi của dân tộc) mà trong khi tiến hành kiểm điểm theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) từ cơ quan cao nhất, từ người có chức vụ cao nhất trở xuống cần nghiêm chỉnh tự chỉ trích để tìm rõ căn nguyên. Từ trong di sản tư tưởng của Hồ Chí Minh, phải chăng, mỗi chúng ta cần nhận ra những điều giản dị, như chân lý của cuộc đời còn lắm bộn bề lo toan của ngày hôm nay, rằng: Có thực hành dân chủ rộng rãi, nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình thì trong hoạch định các quyết sách chính trị mới có sự thống nhất về tư tưởng và hành động, mới có đoàn kết nhất trí thực sự, nếu không sẽ chỉ là “đoàn kết, nhất trí” hình thức, là che dấu sự bè phái, cánh hẩu - nguyên nhân sâu xa sự tồn vong của Đảng và chế độ. Chúng ta thường đã học, đã nói và viết rằng nhân dân là người quyết định lịch sử. Vậy thì, chỉ có cơ chế để dân chủ hóa mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trước hết là trong Đảng đến tổ chức hoạt động của Nhà nước thì nhân dân mới thực sự là chủ và khi ấy nhân dân sẽ đủ sức mạnh và trí thông minh để làm chủ. Đó chính là động lực cơ bản, là sức mạnh vô tận để trong quá trình đổi mới, xây dựng đất nước, không trở lực nào, khó khăn nào có thể ngăn cản được bởi một chân lý hiển nhiên đã từng được lịch sử dân tộc chứng minh: “Khó vạn lần dân liệu cũng xong”.
2. Có dám thực hành dân chủ không?
Trong Hồi ký của Tố Hữu, ông có viết rằng, trong một lần lên báo cáo công tác với Bác, Bác đã nói: Các chú diễn giảng hai tiếng dân chủ sao mà rắc rối thế? Dân chủ thật ra có nghĩa là: “Để cho dân được mở miệng. Liệu có làm được, có dám làm thế không?”
Ai có quyền để cho đảng viên và nhân dân được “mở miệng”?
Câu trả lời thật đơn giản. Đó là những đồng chí nắm trong tay quyền lực của Đảng và quyền lực Nhà nước, từ cấp trung ương trở xuống. Hồ Chủ tịch đã từng chỉ rõ một tình trạng không lành mạnh trong Đảng ta: “Đối với cơ quan lãnh đạo, đối với những người lãnh đạo, các đảng viên và các cán bộ dù có ý kiến cũng không dám nói, dù muốn phê bình cũng sợ, không dám phê bình. Thành thử cấp trên với cấp dưới cách biệt nhau... Trên thì tưởng cái gì cũng tốt đẹp. Dưới thì có gì không dám nói ra. Họ không nói, không phải vì họ không có ý kiến, nhưng vì họ nghĩ nói ra cấp trên cũng không nghe, không xét, có khi lại bị “trù” là khác. Họ không dám nói ra thì họ cứ để trong lòng, rồi sinh ra uất ức, chán nản. Rồi sinh ra thói “không nói trước mặt, chỉ nói sau lưng”, “trong Đảng im tiếng, ngoài Đảng nhiều mồm”, sinh ra thói “thậm thà thậm thụt” và những thói xấu khác” (Hồ Chí Minh toàn tập, T.5, H.1995, tr.243)
Trong những năm gần đây, có biết bao nhiêu vụ khiếu kiện ùn tắc dồn cả lên trên, có không ít những vụ cưỡng chế phải dùng đến cả lực lượng vũ trang. Nguyên nhân chính vẫn là các cấp ủy Đảng và chính quyền không dân chủ trong khi ra quyết định và không dám thành thực đối diện trực tiếp với nhân dân, và đúng là không dám để nhân dân được “mở mồm ra” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói. Viết ra những điều này sẽ có đồng chí không bằng lòng nhưng thưa, Bác Hồ đã từng chỉ ra rằng: Chúng ta thường nêu vấn đề dân chủ, đồng chí nào cũng thấy phải thực hành dân chủ, “nếu ai nói chúng ta không dân chủ thì chúng ta khó chịu. Nhưng nếu chúng ta tự xét cho kỹ, thì thật có như thế...” (Hồ Chí Minh toàn tập, T.5, H.1995, tr.243). Những vụ khiếu kiện kéo dài, những điểm nóng, những vụ giải phóng thu hồi đất phải dùng cả lực lượng vũ trang để giải quyết, suy cho cùng là do thói quan liêu, quan chủ, là không dân chủ từ trong tổ chức Đảng, chính quyền, là trách nhiệm trước tiên của cấp ủy Đảng và người đứng đầu.
Vì sao không dám thực hành dân chủ?
Có nhiều lý do:
- Trước hết, một số người “có tật giật mình”, vì họ đã có những thói hư tật xấu, lạm dụng chức vụ quyền hạn để mưu lợi ích cá nhân hay lợi ích nhóm nên không minh bạch, không công khai, che giấu thông tin, thậm chí đánh lừa dư luận nên khi vỡ lở thì tìm cách lảng tránh, tìm cách xa lánh, không dám đối thoại thẳng thắn với nhân dân.
- Cũng có những trường hợp ngụy biện, thoái thác trách nhiệm nên khi có những việc sai lầm, bị dư luận xã hội thậm chí được đại biểu Quốc hội chất vấn thì bao biện rằng làm theo Nghị quyết của Đảng hay theo luật (nhưng nếu đem đối chiếu kỹ thì chỉ là ngụy biện để đổ lỗi cho Đảng và Nhà nước chứ thực chất không phải thế). Vụ Dương Chí Dũng ở Tổng cục hàng hải thuộc Bộ Giao thông vận tải vừa qua là một thí dụ điển hình.
- Cũng có trường hợp do “sự chấp hành máy móc”, làm việc không có bản lĩnh, không suy xét, quyết đoán cho phù hợp với tình hình địa phương trên cơ sở vì lợi ích của nhân dân nên đem đối lập Đảng, Nhà nước với Nhân dân. Vụ cưỡng chế gây ồn ào ở Hải Phòng và Hưng Yên vừa qua là một thí dụ. Hồ Chủ tịch đã nói: “Nếu chúng ta hỏi cán bộ: “Việc đó làm cho ai? Đối với ai phụ trách?” chắc số đông cán bộ sẽ trả lời: “Làm cho Chính phủ hoặc Đảng, phụ trách trước cấp trên”. Câu trả lời ấy đúng một nửa. Nếu chúng ta lại hỏi: “Chính phủ và Đảng vì ai mà làm việc đó? Và phụ trách với ai?” thì e nhiều cán bộ không trả lời được” (Hồ Chí Minh toàn tập, T.5, H.1995, tr.245). Người còn nói rõ: Đảng và Chính phủ chỉ mưu lợi ích cho nhân dân, nên làm việc gì cũng phải vì nhân dân và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Tình hình phản ứng gay gắt của nhân dân ở một số nơi vừa qua cũng có thể nhân dân chưa hiểu nhưng chủ yếu là vì cán bộ không hiểu, hoặc do lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm, mà cố tình không hiểu, cho nên trong lúc làm việc thường sai lầm “đến nỗi chia Chính phủ và Đảng ra một phía, quần chúng ra một phía... cán bộ chỉ làm theo cách hạ lệnh, cách cưỡng bức. Kết quả dân không hiểu, dân oán” (Hồ Chí Minh toàn tập, T.5, H.1995, tr.245).
Một Đảng chính trị cầm quyền tuyên bố không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của nhân dân, một Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân mà gây ra nhiều điểm phản ứng gay gắt của số đông người dân đến nỗi phải dùng cach hạ lệnh và huy động lực lượng vũ trang để cưỡng chế nhân dân - đối tượng phục vụ của mình - như là một cứu cánh của hoạt động công vụ thì hoàn toàn trái với tư tưởng Hồ Chí Minh, trái với Cương lĩnh và Điều lệ của Đảng. Cần phải chấm dứt và xử lý nghiêm những cán bộ chủ chốt ở những địa phương đã gây ra một số vụ cưỡng chế như thế.
PGS, TS Trần Đình Huỳnh,
Nguyên Viện trưởng Viện Xây dựng Đảng,
Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh
(Theo blog của GS Nguyễn Lân Dũng)

DÂN TRÍ HAY QUAN TRÍ?

Trần Đăng Khoa
- Này, tôi hỏi thật nhé, công việc bề bộn thế, chú có còn thời gian đọc sách báo không?
- Cụ hỏi vậy có nghĩa là thế nào?
- Chả là gần đây, tôi thấy báo chí, truyền hình người ta hay bàn đến việc “nâng cao dân trí”. Nhưng vấn đề quan trọng, tôi nghĩ chính là chuyện “quan trí”, chứ không phải “dân trí” đâu, chú ạ.
- Cụ nói thế nghĩa là...
- Là cán bộ có vấn đề chứ sao. Tôi thấy trình độ dân trí của ta bây giờ rất khá. Họ không ấu trĩ, u mê như các chú lầm tưởng đâu. Bây giờ, chỉ ngồi nhà, kéo cái cần ăng-ten lên là họ đã nắm được toàn thế giới. Trong khi đó nhiều cán bộ của ta lại ấu trĩ, non kém, không đủ khả năng đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao của dân. Mà cán bộ mới là quan trọng. Vì họ mới thực sự ở vị thế tác động tới đời sống xã hội. Một người dân dốt nát, có quyết định sai lầm thì chỉ một mình anh ta, hay cùng lắm là vợ con anh ta phải gánh chịu hậu quả. Nhưng một cán bộ mà có những quyết sách sai lầm thì nguy lắm. Cán bộ càng cao thì tầm ảnh hưởng càng lớn. Có khi một làng, một xã, một huyện, một tỉnh, hoặc thậm chí là cả một dân tộc phải trả giá cho sự sai lầm của một người, hoặc một nhóm người. Tôi nói vậy sao chú lại cười? Có lẽ chú nghĩ tôi là “gái goá lo việc triều đình” ư?
- Ô, không không... Con đang nghe mà. Nghe chuyện cụ vui lắm...
- Thế mà chú còn vui được à? Cái chú này lạ thật. Chính chú mới là cái thằng vô trách nhiệm nhất. May mà chú không làm to. Chú mà làm to không khéo chết dân đấy. Tôi nói, chú bỏ ngoài tai, đừng trách ông lão nhà quê lẩn thẩn nhé. Tôi thấy cán bộ các chú bây giờ nhiều anh buồn cười lắm. Có anh nói rất hùng hồn mà người nghe vẫn chẳng hiểu anh ta nói gì cả. Bởi tư duy người nói đâu có được mạch lạc. Có anh lên truyền hình vẫn còn nói ngọng, cứ lẫn lộn giữa n với l. Nghe mà nản quá, chú ạ. Còn nhớ một lần, tôi dự buổi mít-tinh truy điệu đồng bào bị thiệt hại trong mấy trận lũ lụt. Có ông đọc điếu văn xong lại vỗ tay hoan hô. Ông ta vỗ trước, rồi mọi người ngơ ngác vỗ theo...
- Cái đó xin cụ thông cảm, có thể do thói quen mà hoá sơ suất...
- Làm cán bộ thì phải cẩn trọng ngay từ những cái nhỏ nhất chứ. Bởi anh ta đang đứng trước dân. Ở đâu cũng có “ống kính”. Người dân sẽ trông vào anh ta mà tìm cách ứng xử cho mình. Với những anh cán bộ như thế thì đừng trách vì sao dân lại thiếu lòng tin vào những người lãnh đạo. Cũng đừng nghĩ là họ nhẹ dạ bị địch xúi giục, mua chuộc. Chẳng có địch nào chui được vào đội ngũ nhân dân, những người suốt đời gắn bó sinh tử với cách mạng, với đất nước. Hàng triệu con, em của họ còn đang nằm ở dưới đất trong suốt mấy cuộc chiến tranh kia...
- Vâng, cụ nói vậy thì con cũng biết vậy. Nhưng dân mình cũng cần độ lượng, thông cảm. Làm cán bộ cũng khó lắm...
- Thì có ai bảo làm lãnh đạo dễ đâu. Tôi có ông bạn chăn trâu cắt cỏ xưa, giờ làm Phó Chủ tịch tỉnh. Ông ấy bảo: “Cậu nói gì? Cần phải học à? Rõ vẽ chuyện! Tớ chỉ học hết có lớp Bốn, sau này được người ta đưa đi học hết bổ túc lớp Bảy. Thế mà suốt mấy chục năm làm cán bộ, tớ có sử dụng đến kiến thức đã học đâu”. Tôi không biết những ông cán bộ như thế sẽ múa may ra sao trong thời Kinh tế tri thức và thông tin toàn cầu này. Chẳng biết chú thế nào, chứ tôi thì tôi lo lắm. Bởi thế cùng với việc nâng cao dân trí, chúng ta cần khẩn cấp nâng cao quan trí, chứ không thì nguy đấy.
- Vâng, cụ góp ý vậy thì con cũng chỉ biết vậy...
- Biết vậy, rồi vẫn cứ để vậy chứ gì? Các chú cứ hay hỏi ý kiến, rồi lại còn đề nghị góp ý. Đến khi người ta góp ý thật thì lại chẳng nghe. Hoặc nếu có nghe, thì nghe xong rồi bỏ đấy. Hay chú nghĩ cái ông lão cựu chiến binh nhà quê, lẩm cẩm đã hết thời, ngồi ở xó nhà lại cứ đòi bàn chuyện thế giới...
- Ấy chết, con đâu dám nghĩ thế...
- Nhân có chén trà vặt, lại có chú sang chơi, thì tôi nói thế thôi. Thực tình, người dân chúng tôi lo lắm. Chú hỏi bây giờ dân quan tâm đến điều gì ư? Miếng cơm, manh áo. Đã đành là thế rồi. Đối với người dân, miếng cơm to lắm. Manh áo cũng lớn lắm. Tuy thế, số phận của dân đâu chỉ lệ thuộc vào chuyện cơm áo. Cái mà chúng ta quan tâm nhất bây giờ vẫn là chuyện chống tham nhũng và ổn định chủ quyền ở Biển Đông. Chính vì thế, cuộc tiếp xúc cử tri của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Chủ tịch nước Trương Tấn Sang mới được nhân dân chú ý đến như vậy. Dân rất hứng khởi khi nghe ông Sang bảo, phải kiên quyết chống tham nhũng. Dù đau đớn cũng phải làm. Không thể khác...
- Vâng, con cũng rất tâm đắc khi xem truyền hình tường thuật...
- Bấy lâu nay, thời tôi còn công tác, ta vẫn cứ nói Tập thể lãnh đạo, Cá nhân phụ trách. Nhưng tôi nghĩ, quan trọng nhất vẫn là anh đứng đầu chú ạ. Tập thể, dù có là Thường vụ, hay Cấp ủy thì cũng chỉ là người giúp việc mà thôi. Nếu nói tập thể lãnh đạo, thì khi có sự cố, người đứng đầu rất dễ lẩn tránh trách nhiệm. Ví như vụ đề bạt ông Dương Chí Dũng vừa rồi ấy. Người đứng đầu vẫn ung dung: Chúng tôi làm đúng quy trình. Tôi không ký cái gì sai cả. Khi đề bạt ông Chí Dũng, thanh tra Chính phủ chưa có kết luận. Trời đất ơi! Khi thanh tra đã kết luận rồi thì còn gì để bàn nữa. Người đứng đầu phải nắm được cán bộ của mình khi tiến cử chứ. Việc chọn người đã sai thì mọi thủ tục tuần tự, dù có đúng cũng vô nghĩa. Vấn đề quan trọng nhất vẫn là việc chọn người. Cần tránh chủ nghĩa hình thức chú ạ. Ví như việc kê khai tài sản. Tôi cho đó cũng chỉ là hình thức. Vì không thể kiểm soát được. Có ông rất giàu, nhưng nhà cửa, tiền bạc lại “lặn” hết vào con cháu họ hàng. Nếu thực sự muốn kiểm kê tài sản, thì phải xóa bỏ mọi giao dịch bằng tiền mặt. Tất cả đều thanh toán theo thẻ qua hệ thống ngân hàng. Như thế, Nhà nước mới kiểm soát được. Một vấn đề tôi nghĩ cũng cần minh bạch chú ạ. Đó là sự công khai năng lực cán bộ. Điều này cũng rất dễ làm, dù chúng ta không có chế độ tranh cử. Ví dụ, ông nào được đề bạt thì có cuộc ra mắt trước dân, tường thuật trực tiếp trên các kênh truyền thông. Ông ta có thể trình bày thực trạng của ngành mà mình phụ trách. Ngành đó ở các nước phát triển như thế nào? Trên thế giới ra sao? Rồi sự phát triển của nó trong các nước khu vực? Thực trạng mình đang ở đâu? Người tiền nhiệm đã làm được những gì? Đến lượt mình, mình sẽ làm gì? Khâu nào sẽ là đột phá khẩu? Tiến trình của năm thứ nhất? Rồi năm thứ hai? Rồi toàn khóa mà mình đảm nhiệm? Như thế tất cả đều minh bạch, rõ ràng. Dân sẽ biết ngay năng lực, trình độ, khả năng của người gánh vác nhiệm vụ. Rồi từ đó mới có tiêu chí để giám sát kiểm tra, rồi bỏ phiếu tín nhiệm. Nếu làm tốt thì tiếp tục khóa tới. Nếu không làm được thì rời ngay vị trí cho người khác lên thay. Người tài ở trong thiên hạ còn nhiều lắm. Còn nhớ Tổng thống B.Elsin. Tôi đọc báo, mới biết ông này hay uống rượu, khi đi thăm nước ngoài, chủ nhà đã đón tề chỉnh theo nghi thức cấp cao nhất, mà bố ấy còn say xỉn trên máy bay, không xuống được. Khi sắp xếp Nội các, ông ấy chọn cán bộ cũng cũng rất chếnh choáng. Thoạt đầu Thủ tướng là một vị cán bộ lão thành giàu kinh nghiệm lãnh đạo đã ở tuổi bảy mươi. Sau thấy không hiệu quả, ông thay bằng một anh chàng rất trẻ vừa mới chớm ba mươi, nguyên là Bộ trưởng ngành Luyện kim gì đó. Rồi ông lại tiếp tục thay. Ông thay cán bộ cứ như thay áo. Nhưng rồi cuối cùng, ông đã tìm ra được Thủ tướng V.Putin, người đã cứu nước Nga thoát khỏi hiểm họa. Bây giờ, sau hai nhiệm kỳ Tổng thống, một nhiệm kỳ Thủ tướng, V.Putin lại quay về chức vụ Tổng thống, theo sự tín nhiệm của nhân dân Nga. Ở thời đại nào, người đứng dầu cũng vô hạn quan trọng. Bởi nó quyết định sự hưng thịnh hoặc suy tàn của một chính thể hay một quốc gia. Cụ Hồ ngày xưa rất tài trong kỹ nghệ dùng người. Ở lĩnh vực này, Ông Cụ quả là một vị Thánh sống, chú ạ...
Theo Blog Lão Khoa, 01/7/2012

VĨNH BIỆT NGƯỜI CẮM CỜ TRÊN DINH ĐỘC LẬP

Trần Đăng Khoa
I
Đại tá Bùi Quang Thận đã qua đời đột ngột sáng ngày 24/6/2012 tại Thụy Xuân, Thái Thụy, Thái Bình, khi mới tròn 64 tuổi. Tang lễ đã cử hành tại làng quê anh, theo đúng thủ tục của người dân quê. Trước đây, anh cũng đã từng được đề nghị tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Nhưng theo Bùi Quang Thận, khi làm các thủ tục để xét thì địa phương không đồng ý, vì ông bố anh có biểu hiện mê tín dị đoan. Huyện đội cũng đã can thiệp nhưng vẫn không xong. Anh bảo: “Kể thì cũng hơi buồn. Nhưng mình sống được đến giờ cũng là may mắn lắm, nếu so với những đồng đội của mình còn nằm lại trong các cánh rừng lạnh lẽo mà đến bây giờ cũng vẫn chưa tìm được hài cốt”. Năm 2000, Bùi Quang Thận về hưu. Anh cười hiền lành: “Mình xa vợ con biền biệt. Bây giờ mới có điều kiện giúp đỡ vợ con”. Bùi Quang Thận trở về với ruộng đồng. Anh lao động cật lực như một lão nông. Gần đây, ngoài làm ruộng, anh còn thuê ao, nuôi tôm, thả cá. Rồi vợ chồng anh mở thêm cửa hàng bán gas ở quê. Nhà nào hết gas hay van gas hỏng là anh có mặt thay gas và bảo hành sửa chữa. Anh bảo, thay một van gas hỏng, cái lớn được 5000, cái nhỏ cũng 500 đồng đấy. “Toàn tiền tươi thóc thật cả!”. Trông anh thợ gas xởi lởi, thật thà, tận tụy và tốt bụng, không ai nghĩ đó là người anh hùng không có trong Danh sách những người anh hùng.
Có lẽ trong chúng ta, ai cũng biết anh đại đội trưởng xe tăng Bùi Quang Thận, người đã cắm lá cờ trận mạc trên nóc Dinh Độc Lập buổi trưa ngày 30/4/1975. Nhưng xung quanh việc cắm cờ này, còn có khối điều thú vị mà không phải ai cũng có thể biết hết. Chính Bùi Quang Thận cũng không thể ngờ được mình đã làm nên kỳ tích lịch sử chỉ bằng có... hai bàn tay không.
Câu chuyện bắt đầu từ lúc 8 giờ sáng ngày 30 tháng 4. Khi đó, trận đánh đã diễn ra căng thẳng và khốc liệt. Lữ đoàn trưởng Nguyễn Tất Tài lệnh cho đại đội 4 ở phía sau vượt lên, chiếm đầu cầu, rồi chớp thời cơ, chọc thẳng vào mạng sườn địch. Bị cú đánh bất ngờ, địch thoáng chững lại. Đội hình chúng có phần nhốn nháo. Xe tăng ta tiến đến đầu cầu Thị Nghè thì bất ngờ mấy chiếc tăng địch chẳng biết ở đâu lù lù hiện ra. Hình như chúng muốn chặn ta ở ngay trên cầu. Đại đội trưởng Lê Tiến Hùng, chỉ huy chiếc xe tăng thứ hai bị thương, bắt buộc phải dừng lại. Tình thế khá nguy cấp. Bùi Quang Thận tức tốc cho xe 843 vượt lên, bắn cháy liền một lúc cả hai xe M.41 và M.113 của địch. Trong xe anh chỉ còn duy nhất 2 viên đạn. Sau này, anh mới biết hai viên đạn thối. Thực tình, lúc đó, chiếc xe đã hết đạn, mà chặng đường còn rất xa, phải vượt qua bao tuyến phòng thủ kiên cố dày đặc của địch mới đến được Dinh Độc Lập. Vừa qua khỏi cầu Thị Nghè, anh lại đụng phải 3 chiếc xe tăng địch xông ra đánh chặn. May sao, Vũ Đăng Toàn, chính trị viên đại đội 4, ngồi trên chiếc tăng 390 đã chỉ huy bắn cháy luôn cả 3 chiếc tăng ấy. Đạn trong xe địch nổ toang toác. Không gian sặc sụa và tanh khét mùi thép cháy. Bọn địch ngồi lố nhố trên mấy chiếc xe bọc thép gần đấy, thấy thế hoảng hốt nhảy khỏi xe, bỏ chạy tán loạn. Thế là tuyến phòng thủ vòng ngoài của địch hoàn toàn tan vỡ. Được sự giúp đỡ chỉ dẫn của nhân dân và biệt động thành, lữ đoàn tăng 203 đã chia làm 2 mũi, hướng theo đường Hồng Thập Tự tốc thẳng vào Dinh Độc Lập. Lúc 10 giờ 15 phút, chiếc xe tăng 843 của Bùi Quang Thận dẫn đầu đã vượt qua các ổ đề kháng, vượt qua khu Nhà Xanh, vượt qua cả những họng súng đang ngơ ngác của địch, lừng lững tiến thẳng vào cửa Dinh Độc Lập. Khi thấy toà nhà trắng loá hiện ra trước cửa xe, Bùi Quang Thận cho lắp một viên đạn nã thẳng vào Dinh để thị uy. Đạn thối, không nổ. Anh cho nạp viên cuối cùng. Cũng lại không nổ. Hú vía cho cái Dinh Thống Nhất bây giờ đã thoát được hai viên đạn của anh. Một chiếc tăng của ta đã húc thẳng vào cánh cổng Dinh Độc Lập. Bùi Quang Thận cho xe lùi ra, húc tiếp vào cánh cổng bên trái của Dinh. Đó là đòn tấn công cuối cùng của chiếc tăng không còn vũ khí. Cũng thật may cho Bùi Quang Thận và đồng đội anh, một người vô danh nào đó trong Dinh đã kịp cắt cầu dao hàng rào điện tử, nếu không, chỉ chạm vào cổng sắt là chiếc tăng của anh và đồng đội anh sẽ bị nổ tung. Phải đến cú húc thứ ba cánh cổng sắt mới chịu đổ sập. Bùi Quang Thận cho xe tốc thẳng vào sân dinh. Trước mặt anh, lố nhố những xe tăng, xe bọc thép tuyến phòng ngự cuối cùng của địch bảo vệ Dinh với bao nhiêu súng ống đạn dược tối tân, còn anh, chỉ có hai tay trắng và chiếc xe tăng lổng nhổng vỏ đạn. Bùi Quang Thận giật phắt lá cờ trận mạc cắm trên xe tăng, quay lại bảo lái xe Lữ Văn Hoá, pháo thủ Thái Bá Minh:
- Các cậu ở lại, mình vào Dinh nhé. Nếu không thấy mình quay ra, cũng không thấy lá cờ này nhô lên, thì tức là mình đã chết ở trong Dinh rồi!
Thế rồi, với hai bàn tay trắng, chỉ có lá cờ trận mạc ố xuộm khói đạn làm vũ khí, Bùi Quang Thận xông thẳng vào sào huyệt cuối cùng của kẻ thù. Qua bậc tam cấp, anh bị đánh bật trở lại. Hàng rào đặc biệt chống đỡ chăng? Bùi Quang Thận ngỡ ngàng một chút, rồi chợt nhận ra đó chỉ là bức tường kính trong suốt mà thoạt đầu anh không nhìn thấy, cũng chẳng biết nó là cái gì.
- Cửa ở đây mà, ông!
Một người đàn ông áo cộc tay trắng chỉ cửa cho Bùi Quang Thận. Trong nhà mát rượi như giữa hang đá. Toàn bộ nội các của chính quyền Sài Gòn cũ đã có mặt đông đủ. Họ ngồi, đứng nhấp nhố quanh bàn. Trông ai cũng rất lịch sự. Áo cộc tay trắng. Tóc chải mượt. Mùi nước hoa thoang thoảng khắp phòng. Họ ngỡ ngàng nhìn người đại diện đầu tiên của Quân giải phóng, một người lính gầy gò, gương mặt đen đúa, hốc hác vì đói ăn và thiếu ngủ.
- Ông nào là Dương Văn Minh?- Bùi Quang Thận quát hỏi. - Cho tôi gặp ngay Dương Văn Minh!
- Dạ thưa, ngài gặp Tổng thống có việc gì ạ?
- Để ông ấy dẫn tôi đi cắm cờ.
- Dạ... dạ, cái việc ấy thì ông này làm được. Chỉ có ông ấy mới biết chỗ...
Một gã béo trắng, da dẻ mỡ màng, áo cộc tay trắng, chỉ vào một người đàn ông cũng mặc áo cộc tay trắng, nhưng gầy mảnh hơn, đứng ngay bên cạnh tôi. - Bùi Quang Thận tiếp tục câu chuyện: - Mãi sau này, khi đọc những trang sử quân đội nói về buổi trưa hôm ấy, tôi mới biết đó là đại tá Vũ Quang Chiêm, chánh văn phòng Phủ Tổng thống. Ông ta lập cập đưa tôi qua một hành lang, rồi vào hút sâu mãi phía trong, qua một gian nhà nữa cũng mát như hang đá (Đúng là cảm giác của người lính ở rừng - Trần Đăng Khoa). Rồi ông ta chọc một ngón tay vào tường. Bức tường tự nhiên nứt ra thành một cái phòng bé toen hoẻn như cái toa-lét, ba phía đều là tường. Ông ta bước vào, còn tôi thì ngần ngừ, bước vào, rồi lại quay ra ngay lập tức. Tôi nghi quá. Mình đi cắm cờ, chứ có đi toa-lét đâu. Hắn định giở cái trò khỉ gì thế này? Rõ là đồ quỷ thuật. “Dạ thưa, ông vào đi. Đây là cái thang máy. Tôi đưa ông đi cắm cờ mà”. Gã nói lắp bắp, có vẻ như là thành thật. Nhưng tôi vẫn phải cảnh giác. Bởi tôi không có vũ khí trong tay. Tôi bắt gã úp mặt vào tường, rồi mới bước vào. Gã lại đưa tay lên, chọc một ngón vào cái nút ở trên tường kiểu như là điểm hoả. Tôi chộp ngay tay hắn. Chỉ chút nữa thì tôi cho gã một quả phật thủ. “Không! Không, tôi ấn nút thang máy mà!”. Gã kêu lên thảm thiết. Cánh cửa lập tức sập lại ngay sau lưng tôi. Bây giờ thì bốn phía đều là tường. Thật chẳng còn hiểu ra làm sao cả. Lên tầng thượng, hắn dẫn tôi đến cột cờ. Hoá ra cờ mình bé quá. Nó là cờ hiệu cắm trên nóc xe tăng. Trong không gian, ở trên đỉnh cái Dinh lồng lộng này, nó chỉ như cái mắt muỗi. Còn cờ địch to lắm, rộng đến mấy chục mét chứ chẳng ít, lại chằng buộc rất kỳ công bằng các nút dây thép, chừng hai mươi phân một nút. Tôi gỡ mãi mới được hai nút. Nhìn xuống dưới sân Dinh, xe tăng và quân ta bắt đầu tiến vào. Thế là tôi xé luôn lá cờ ấy, thay lá cờ của ta rồi kéo lên. Lúc bấy giờ là 11giờ 30 phút.
II
Đấy, anh Thận của chúng ta như thế đấy. Dường như anh ấy không chú ý, cũng không có ý thức về vai trò lịch sử của mình. Trung tá Nguyễn Huy Thông, trung đoàn trưởng trung đoàn 203 mà tiền thân là Lữ đoàn 203 bình luận: - Thực tình, chúng ta đã chuẩn bị rất kỹ cho việc cắm cờ trên nóc Dinh Độc Lập này. Đơn vị được chọn làm công việc cuối cùng của cuộc kháng chiến cứu nước ấy là một Đơn vị Anh hùng. Người được chọn cắm cờ cũng là người có đầy những kỳ tích, cũng như người bay vào vũ trụ sau này phải là anh hùng Phạm Tuân, người đã “bắn cháy” B52, và cái máy bay Mỹ thứ 4.000 cũng phải rơi ngay trên đất Tổ 4.000 năm lịch sử của Vua Hùng. Nhưng rồi chiếc xe tăng chở lá cờ lớn được chuẩn bị rất kỹ ấy lại đi lạc, rồi lại phải đánh nhau rất dữ dội ở mãi ngoài Dinh. Và rồi Giời đã thay người cắm cờ ấy bằng anh lính nông dân Thái Bình Bùi Quang Thận. Mọi việc anh Thận làm đều rất giản dị. Khi dứt lá cờ nguỵ, thoạt đầu anh định ném xuống sân. Nhưng nhìn lại, thấy vứt đi phí quá. Cái cờ chẳng ra quái gì, nhưng vải rất tốt, dày đến mức có thể làm chăn đắp được. Thế là anh cuộn lại, định bụng mang về quê, dùng để lót ổ thay cho rơm rạ hay lá tre khô. Sau này lịch sử cần biết đích xác người cắm cờ. Lúc ấy mới hay là có quá nhiều người cắm cờ. Sự thật thì họ đều cắm cờ cả. Nhưng cắm ở tiền sảnh, ở góc nhà, ở rất nhiều nơi xung quanh Dinh Độc Lập và ở ngay cả chính Dinh Độc Lập. Nhưng ai là người cắm lá cờ trận mạc, lá cờ Quyết chiến quyết thắng trên nóc Dinh kia. “Thì tôi cắm đấy mà” - Bùi Quang Thận trả lời thật giản dị. Vậy thì bằng chứng đâu? Phải có gì làm bằng chứng chứ. Lịch sử vốn cần chính xác và cụ thể. Ai bắt Dương Văn Minh? Ai thảo thư đầu hàng cho Tổng thống nguỵ? Sau này cũng phải tranh cãi, xác định mãi. Có đến cả mấy cuộc hội thảo khoa học rồi mà vẫn chưa kết luận được đích xác sự việc ấy. Bùi Quang Thận chợt nhớ đến cái lá cờ của địch mà anh cuộn lại, định mang về quê Thái Bình trải ổ thay cho rơm rạ. Người ta khớp vết xé với những nút sắt buộc trên cột cờ mới nhận ra anh. Còn anh thì cười hiền lành: “Ôi dào, có gì đâu. Tôi chẳng nghĩ gì khi làm điều đó. Đấy là một việc rất đỗi bình thường của một người lính trận. Anh nào trong hoàn cảnh ấy cũng sẽ làm như tôi. Đơn giản thế thôi. Có gì mà các bố cứ lằng nhằng rắc rối cho nó hoá to chuyện!”.
Bây giờ, Bùi Quang Thận đã là người trong cõi nhớ thương rồi. Xin coi mẩu chuyện nhỏ này như một nén tâm hương của những người chép sử bằng âm thanh VOV tưởng nhớ anh. Kính mong các cơ quan chức năng bàn lại với địa phương để trao lại Danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân cho anh. Bởi anh hoàn toàn xững đáng với Danh hiệu cao quý ấy...
Theo Blog Lão Khoa, 26/6/2012