NHỮNG ĐIỀU
NÊN BIẾT VỀ HIỆN TƯỢNG TRÙNG TANG
I. KHÁI NIỆM:
Theo kinh nghiệm, cổ nhân cho rằng trong thực tế, với mỗi
người chết sẽ xảy ra các trường hợp như sau:
*
Thiên di: Là dấu hiệu ra đi số do “trời định”, người mất lúc đó
được “trời” đưa đi. Sự ra đi này nằm ngoài mong muốn của người mất, nhưng cũng
là hợp với lẽ trời. Số này thường được giải thích theo hai lý do là do kiếp
trước hoặc là tiên, hoặc là quỷ sứ bị đầu thai giáng làm kiếp người, hết thời
gian tu luyện bị trời bắt đem về lại.
* Nhập mộ: Nghĩa là lý do chết bởi đến đó
là hết số rồi nên phải chuyển kiếp. Đó là dấu hiệu người “ra đi” phải “nằm
xuống” vĩnh viễn, không còn vương vấn trần ai. Thể hiện sự an lành, yên nghỉ.
Chỉ cần một “nhập mộ” của tuổi hoặc tháng, ngày, giờ nghĩa là người chết đã hết
số. Trong họ tộc đang gặp trùng tang mà có người chết vào tuổi nhập mộ thì
trùng tang coi như đã được hoá giải, không còn phải lo lắng nữa. Người chết mà
được cả năm, tháng, ngày, giờ đều nhập mộ thì được coi là cái chết phúc đức để
đời cho con cháu. Vong chết không phạm trùng tang, mãn kiếp sa bà, con cháu làm
ăn thịnh vượng, phát tài, sai lộc.
* Trùng tang (kiếp sát): Là dấu hiệu “ra đi”
không hợp số phận, không dứt khoát, chưa tới số mà phải chết oan uổng, có sự
oán thán nào đó của cõi âm, gây “ảnh hưởng” tới người ở lại (dự báo sẽ có người
thân chết theo). Theo quan niệm xưa, nếu gặp phải “trùng tang” mà không có
“nhập mộ” nào thì cần phải mời người có kinh nghiệm làm lễ “trấn trùng tang”.
(Cụ
thể là: Trùng tang rơi cả vào 4 kiếp sát Dần, Thân, Tỵ, Hợi. Trong bảng tử vi,
các cung Dần, Thân, Tỵ, Hợi là nơi mà sao Tràng Sinh đóng, bảng tử vi nào mà
sao Tràng Sinh nằm ngoài 4 cung này thì chắc chắn sai. Vì sao Tràng Sinh đóng ở
cung này nên đáng lẽ phải sinh ra thì lại chết đi (xấu), do đó linh hồn không siêu
thoát được, cứ quanh quẩn trong nhà trở thành “trùng”, rồi lần lượt “bắt” theo
từng người thân trong gia đình, dòng tộc. Thìn, Tuất, Sửu, Mùi vốn còn được gọi
là Tứ Mộ nên chết vào những cung này là chết đúng.)
Như vậy, “Trùng tang là
tình trạng trong thời gian chưa mãn đại tang, hoặc chưa mãn tang bà con gần,
lại tiếp theo 1 cái đại tang hoặc 1 cái đại tang gần khác”. Hoặc có thể gọi
trùng tang là tang chủ phải mang ít nhất 2 vòng khăn tang trong cùng một thời
điểm. Trong nhà, người thân vừa nằm xuống lại có nguy cơ liên táng là đáng lo
ngại. Nhưng phải trong 3 năm liền xảy ra liên tiếp những cái chết
của những người trong cùng dòng tộc mới coi là “Trùng tang”. Dân gian cho rằng trùng tang là người qua đời gặp ngày
giờ xấu, cần hoá giải để tránh nguy cơ.
Trong
số đó:
- Trùng tang ngày là nặng nhất (Tam xa - 7 người chết theo),
- Trùng tang Tháng là nặng nhì (Nhị xa- 5 người chết theo),
- Trùng tang Giờ là nặng thứ ba (Nhất xa - 3 người chết
theo),
- Trùng tang Năm là nhẹ nhất (Có thể 1 người chết theo).
Mất dưới 10 tuổi không tính trùng tang.
Lưu
ý: Chỉ
những người có dòng máu trực hệ với người mất mới chịu tác động của Trùng tang.
Như trong gia đình thì có cha, mẹ, vợ, con, anh chị em ruột, cháu nội là chịu
tác động của Trùng tang. Những người khác như con dâu, con rể, cháu ngoại,
người làm công thì không chịu động của Trùng tang. Kể cả con gái đã đi lấy
chồng cũng không chịu tác động vì đã theo về phụ thuộc họ nội bên chồng. Trùng
tang không lây qua những người không thuộc dòng máu trực hệ.
Người
chết trùng thường có đặc điểm: Dù có ốm thập tử nhất sinh, người đó vẫn luôn
tin mình sẽ sống (kể cả là ung thư giai đoạn cuối thì vẫn tin có phép tiên),
nên nếu người nhà hỏi người ấy có muốn trăng trối gì không thì họ thường lảng
tránh câu đó, không muốn trả lời. Thêm nữa, nếu mất trong khoảng giữa đêm hoặc
gần 6h sáng thì cũng nên cẩn thận vì đó là giờ quan, nên đi xem xét cho cẩn
thận kẻo bị trùng tang mà không biết.
II. CÁCH TÍNH:
1. Trường hợp 1: Trùng tang có thể là thời gian lúc mất, trùng năm (như
người tuổi Dần mất năm Dần), trùng ngày (như người tuổi Sửu mất ngày Sửu),
trùng giờ (như người tuổi Ngọ mất giờ Ngọ).
2. Trường hợp 2: Cách tính phổ biến (dựa trên tuổi âm lịch):
Theo
sách “Tam giáo Chính hội” viết: “Nam nhất
thập khởi Dần thuận liên tiến, Nữ nhất thập khởi Thân nghịch liên tiến. Niên hạ
sinh Nguyệt, Nguyệt hạ sinh Nhật, Nhật hạ sinh Thời, Ngộ:
Tý - Ngọ - Mão - Dậu: Thiên di;
Dần - Thân - Tỵ - Hợi: Trùng tang;
Thìn - Tuất - Sửu - Mùi: Nhập mộ cát
dã”.
Cách
tính: Dùng 12 cung địa chi trên bàn tay để tính. Nam khởi từ cung Dần tính
theo chiều thuận (chiều kim đồng hồ), Nữ khởi từ cung Thân tính theo chiều
nghịch. Lần lượt từ tuổi, đến tháng, ngày và giờ mất.
+ Tính tuổi mất: Bắt
đầu là 10 tuổi (cung Dần thuận tiến đối với nam, cung Thân nghịch tiến đối với
nữ), cung tiếp theo là 20 tuổi, cung tiếp là 30 tuổi,… tính đến tuổi chẵn chục
của tuổi người mất. Sau đó, cung tiếp theo là tuổi lẻ tính đến tuổi của người
mất (1,2,3), gặp ở cung nào thì tính là cung tuổi.
+ Tính tháng mất: Hết
phần tính tuổi thì tính đến tháng mất. Từ cung tuổi, tính cung tiếp theo là
tháng 1, tính lần lượt đến tháng mất, gặp cung nào thì cung đó là cung tháng.
+ Tính ngày mất: Từ
cung tháng, tính cung tiếp theo là ngày mùng 1 (âm lịch), tính lần lượt đến
ngày mất, gặp cung nào thì tính cung đó là cung ngày.
+ Tính giờ mất: Từ
cung ngày, tính cung tiếp theo là giờ Tý, tính lần lượt đến giờ mất, gặp cung
nào thì tính cung đó là cung giờ. Chú ý: Giờ âm lịch chỉ chia một ngày ra 12
giờ: Tý (23-01 giờ), Sửu (01-03 giờ)... Hợi (21-23 giờ).
+ Tính giờ nhập liệm (dùng cho cả trường hợp không trùng tang):
Việc
tính giờ hành sự tang lễ cho người chết không giống như chọn ngày hành sự công
việc của người sống, chỉ chọn giờ hoàng đạo là đủ. Mà giờ nhập liệm và ngày
chôn phải là ngày, giờ Nhập mộ các giờ (Thìn, Tuất, Sửu, Mùi). Nhưng thay vì: “Nam khởi Dần thuận tiến, Nữ khởi Thân
nghịch tiến” theo vòng tính trên bàn tay, thì cách tính ngày chôn khởi từ
ngày tử: “Nam khởi tử thuận tiến, Nữ khởi
tử nghịch tiến” để chọn ngày nhập mộ trong cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi. Được
ngày Nhập mộ rồi, tiếp tục chọn giờ Nhập mộ trong cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi.
Tuy nhiên, Thìn nằm trong “Long, Hổ, Kê,
Xà tứ kỵ”, nên bất đắc dĩ mới dùng. Vị chi còn lại Tuất, Sửu, Mùi để tính.
Tính được ngày Nhập mộ rồi, gia quyến cần xem các giờ Tuất, Sửu, Mùi xem giờ
nào trong số bốn giờ kể trên trùng vào cung hoàng đạo thì chọn để nhập liệm.
Theo cách đó, tiếp tục coi xem trong các ngày, giờ Tuất, Sửu, Mùi tiếp theo, để
chọn ngày giờ hạ huyệt. Giờ là quan trọng nhất, nếu không chọn được ngày Nhập
mộ có hoàng đạo thì chỉ cần có giờ Nhập mộ (Tuất, Sửu, Mùi) hoàng đạo cũng vẫn
tốt. Tuyệt đối kỵ các ngày, giờ Dần, Thân, Tỵ, Hợi là ngày giờ Trùng tang,
không dùng để nhập liệm hay hạ huyệt được (ngày, giờ tính theo vòng Thiên di -
Nhập mộ ở trên). Khi không thể đợi được ngày, giờ tốt trong cung Tuất, Sửu, Mùi
thì có thể sử dụng ngày, giờ của cung Thiên di: Tý, Mão, Ngọ để hành sự tang lễ
cũng tàm tạm được (ngày giờ tính theo vòng Thiên di - Nhập mộ).
Giờ
liệm rất quan trọng, bởi quan niệm của người Việt, sau khi bỏ người chết vào
quan tài, sẽ làm phép hú 3 hồn 7 (9) vía về nhập xác. Sau khi đóng nắp quan tài
là coi như thủ tục chuyển kiếp cho người chết đã hoàn tất, tựa hồ như trên trần
gian đã xong việc khai sinh, nhập khẩu; chôn chỉ là việc tất yếu. Giờ liệm tốt
nhất khi cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi rơi vào sao Kim Quỹ là sao chủ về phúc đức,
hoặc sao Tư Mệnh (Phương Liên) là giờ hành đạo của Phật.
+ Tính giờ hạ huyệt (giờ chôn): Hết phần tính giờ liệm, tính
tiếp giờ chôn ở cung tiếp theo và giờ tiếp theo sau giờ liệm. Chọn giờ chôn tại
các cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi. Sau khi vào cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi rồi, muốn
tốt nữa, nên đối chiếu xem các cung ấy có rơi vào ngày, giờ hoàng đạo hay
không? Nhị thập bát tú thuộc sao gì? Nếu chưa vào giờ, ngày hoàng đạo; hoặc cần
lui thời gian đưa tang để tổ chức lễ viếng, thì có thể bỏ qua vòng tính đầu,
tiếp tục tính thêm nhiều vòng nữa cho đến ngày, giờ như ý thì chọn.
Lưu ý: Chỉ cần gặp được một cung “Nhập mộ” là coi như yên lành, không cần
phải làm lễ trấn trùng tang, vì “nhất Nhập mộ sát tam trùng” (một “Nhập mộ” xoá
được 3 “Trùng tang”). Hoặc được 2 “Thiên di” thì cũng không lo vì “nhị Thiên
di sát nhất trùng” (2 “Thiên di” xoá được 1 “Trùng tang”).
* Tổng hợp nhanh:
- Tý, Ngọ, Mão, Dậu nếu chết
vào một trong các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu thì rơi vào trùng tang;
- Hoặc: Dần, Thân, Tỵ, Hợi
nếu chết vào một trong các năm Dần, Thân, Tỵ, Hợi thì rơi vào trùng tang;
- Thìn, Tuất, Sửu, Mùi nếu
chết vào một trong các năm Thìn, Tuất, Sửu, Mùi có nghĩa là chết vào các năm
“xung” (tứ hình xung) sẽ bị trùng tang.
Chúng ta có thể dùng bảng để tính,
hoặc dùng bàn tay để bấm Trùng tang cũng được kết quả như trên.
Nếu căn cứ vào phép tính trùng tang như trên thì cả nam và
nữ, những người chết vào các tuổi (âm lịch): 10, 13, 16, 19, 22, 25, 28, 31,
34, 37, 40, 43, 46, 49, 52, 55, 58, 61, 64, 67, 70, 73, 76, 79, 82, 85, 88,
91... sẽ rơi vào Trùng tang. Từ đó quy nạp ngược lại theo hệ can - chi thì
những người có tuổi: Tý, Ngọ, Mão, Dậu nếu chết vào một trong các năm Tý, Ngọ,
Mão, Dậu thì rơi vào trùng tang; Hoặc: Dần, Thân, Tỵ, Hợi nếu chết vào một
trong các năm Dần, Thân, Tỵ, Hợi thì rơi vào trùng tang; Thìn, Tuất, Sửu, Mùi
nếu chết vào một trong các năm Thìn, Tuất, Sửu, Mùi có nghĩa là chết vào các
năm “xung” sẽ bị Trùng tang.
Theo quan niệm của lịch số Trung Hoa và trong dân gian nói
chung thì ngày Trùng tang là ngày đại kỵ trong việc an táng, chôn cất. Ngày này
còn có tên là ngày Cướp sát. Cách tính ngày trùng tang như sau:
Đối với tuổi Thân, Tý, Thìn kỵ Tỵ. Có nghĩa là, người chết
tuổi Thân hay tuổi Tý hoặc tuổi Thìn mà mất vào năm Tỵ, tháng Tỵ, ngày Tỵ và
giờ Tỵ là bị chết vào ngày Trùng tang, tuyệt đối tránh an táng vào ngày Tỵ.
Tương tự như thế đối với các tuổi Tỵ, Dậu, Sửu kỵ Sửu; Dần, Ngọ, Tuất kỵ Hợi;
Hợi, Mão, Mùi kỵ Thân. Tuy nhiên, những ngày Trùng tang này rất hiếm trong năm.
Ngày Trùng tang (trùng nhật) là ngày Dần, Thân, Tỵ, Hợi cùng
trùng ngày, trùng tháng và trùng năm. Như ngày Dần, tháng Dần và năm Dần; ngày
Thân tháng Thân và năm Thân... gọi là những ngày trùng. Vào những ngày trùng,
kiêng kỵ tẩm liệm, chôn cất và cải táng. Người chết với bất cứ tuổi nào cũng
đều xung kỵ ngày này. Trong dân gian tin rằng nếu chôn cất vào ngày trùng ắt sẽ
có một người thân bị chết theo, tuy vậy vẫn nhẹ hơn Trùng tang liên táng.
3. Trường hợp 3: Trùng
tang do chôn sai ngày:
Việc tính
Trùng tang phải xem người chết chôn vào ngày nào nữa, nếu chết chôn vào:
+ Tháng Giêng:
ngày 07, 19.
+ Tháng Hai, tháng Ba:
ngày 06, 18, 30.
+ Tháng Tư:
ngày 04, 16, 28.
+ Tháng Năm, tháng Sáu:
ngày 03, 15, 27.
+ Tháng Bảy:
ngày 01, 12, 25.
+ Tháng Tám, tháng Chín:
ngày 12, 24.
+ Tháng Mười:
ngày 10, 22.
+ Tháng Mười Một, tháng Chạp:
ngày 09, 21.
Nếu người chết mà chôn vào các ngày
trên thì được tính là Trùng tang, trong vòng 3 tháng hoặc 3 năm sẽ có người
chết theo, cần phải giải ngay. Cái khó ở đây là đã chôn rồi, việc trấn trùng
tang rất khó, gia chủ không tự lo liệu được nữa mà phải nhờ thầy chùa. Đặc
biệt, một số vùng có tập tục trong vòng 3 ngày là xây mộ luôn, không cải táng
nữa, thì càng sinh to chuyện.
4. Trường hợp 4: Trùng tang liên táng:
+ Tuổi Thân, Tý, Thìn
chết năm, tháng, ngày, giờ Tỵ.
+ Tuổi Dần, Ngọ, Tuất
chết năm, tháng, ngày, giờ Hợi.
+ Tuổi Tỵ, Dậu, Sửu
chết năm, tháng, ngày, giờ Dần.
+ Tuổi Hợi, Mão, Mùi
chết năm, tháng, ngày, giờ Thân.
Chết vào ngày, giờ trên gọi là ngày,
giờ Kiếp sát hay Cướp sát (theo Tứ trụ). Nếu người chết bị vào trường hợp trên
là rất nguy hiểm cho gia quyến, họ tộc, nhanh có thể là 3 giờ, 3 ngày, 3 tháng
đã có người chết theo (trường hợp này rất hiếm gặp).
Thường thì Trùng tang liên táng sẽ
bắt đầu tác động sau khi người chết phạm Trùng tang liên táng được 49 ngày (hết
thời gian vong hồn người mất ở Thân Trung ấm) và kéo dài liên tục có khi đến 10
năm. Nếu những người chết sau mà lại tiếp tục phạm Trùng tang liên táng thì
thời gian kéo dài rất nhiều năm.
5. Trường hợp 5: Chết nhằm ngày Thần
Trùng:
+ Tháng Giêng, 2, 6, 9, 12: Chết nhằm ngày
Canh Dần hay Canh Thân là phạm Thần Trùng “Lục
Canh Thiên Hình”. Nếu gặp thêm năm, tháng cũng vậy thì trùng tang càng nặng.
+ Tháng
3: Chết nhằm ngày Tân Tỵ hay Tân Hợi là phạm Thần Trùng
“Lục Tân Thiên Đình”. Nếu gặp thêm năm, tháng nữa thì trùng tang càng nặng hơn.
+ Tháng 4: Chết nhằm ngày Nhâm Dần hay Nhâm
Thân là phạm Thần Trùng “Lục Nhâm Thiên Lao”. Nếu gặp thêm năm, tháng
nữa thì trùng tang càng nặng hơn.
+ Tháng 5: Chết nhằm ngày Quý Tỵ hay Quý Hợi là phạm Thần Trùng
“Lục Quý Thiên Ngục”. Nếu gặp thêm năm, tháng nữa thì trùng tang càng nặng hơn.
+ Tháng 7: Chết nhằm ngày Giáp Dần hay Giáp
Thân là phạm Thần Trùng “Lục Giáp Thiên Phúc”. Nếu gặp thêm năm, tháng
nữa thì trùng tang càng nặng hơn.
+ Tháng
8: Chết nhằm ngày Ất Tỵ hay Ất Hợi là phạm Thần Trùng
“Lục Ất Thiên Đức”. Nếu gặp thêm năm, tháng nữa thì trùng tang càng nặng hơn.
+ Tháng 10: Chết nhằm ngày Bính Dần hay Bính
Thân là phạm Thần Trùng “Lục Bính Thiên Uy”. Nếu gặp thêm năm, tháng
nữa thì trùng tang càng nặng hơn.
+ Tháng
11: Chết nhằm ngày Đinh Tỵ hay Đinh
Hợi là phạm Thần Trùng “Lục Đinh Thiên Âm”. Nếu gặp thêm năm, tháng nữa
thì trùng tang càng nặng hơn.
II.
CÁCH HÓA GIẢI:
Xin chia sẻ một số cách hóa giải dân
gian thường dùng:
1.
Xin tro hóa vàng tại chùa, rải đều thành lớp dưới hố trước khi hạ quan tài.
2.
Gửi vong lên chùa để “nhốt trùng”. Những ngôi chùa được chọn phải là chùa có uy
tín trong việc giữ vong.
Ngôi chùa trấn trùng nổi tiếng (Đệ
nhất giữ vong) ở miền Bắc là Chùa Hàm Long ở xã Nam Sơn, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc
Ninh (nay thuộc Tp Bắc Ninh). Chùa này có từ thời Lý, đến nay còn lưu giữ bộ
ván khắc Bùa Trấn trùng đầy đủ nhất. Sau này, chùa Liên Phái tại Hà Nội cũng có
được bộ ván khắc này. Hàng ngày vào buổi sáng, các nhà sư tụng kinh niệm Phật
cúng vong rất cẩn thận.
Sau khi gửi vào chùa rồi, gia tang
có thể yên tâm ăn ngủ nếu thực hiện đúng các điều sau:
- Khi đưa vong lên chùa, phải nhờ
người không phải là họ hàng, nếu nhờ được bạn bè là tốt nhất, còn nếu không
cũng phải nhờ người bên họ ngoại. Vì vong chết trùng thường rất khôn ngoan, nếu
thấy người quen (máu mủ trực hệ) đưa đi thì thường nó sẽ đi theo về hoặc tệ hơn
là nó đã biết trước và không đi theo. Thế nên không nên bàn chuyện đưa tiễn vong
lên chùa ở nhà người chết.
- Sau khi gửi lên chùa, ở nhà không
được lập bàn thờ cúng bái người đã chết nữa, kể cả ngày giỗ tết, vì có hương là
có hồn, chỉ cần đốt hương và đọc tên người chết thì đó coi như chìa khoá mở
ngục cho vong thoát ra ngoài.
- Sau khi lên mộ tròn, tức là người
chết đã về với Tổ tiên, mới được thờ cúng lại bình thường.
- Ở chùa Hàm Long có các lá bùa để
gia đình đeo vào trong khoảng 3 năm để tránh tai hoạ, một mặt là chữ Nho, một
mặt là hình Phật bà.
Để tránh trùng tang, ngay từ khi có
người chết, ngoài việc xem thân nhân chết có “phạm giờ” không, cần phải nhờ
thầy hay tự tính, tự xem giờ “Nhập mộ”, phòng “Trùng tang” nhằm trấn trùng, hóa
giải.
3.
Dùng bài thuốc trấn trùng với các vị sau:
+ Thần sa: 3 đồng cân
+ Chu sa: 2 đồng cân
+ Hồng hoàng: 5 đồng cân
+ Sương luật: 5 đồng cân
+ Địa liền: 5 đồng cân
+ A ngùy: 3 đồng cân
+ Huyết giác: 3 đồng cân
+ Đại hồi: 5 đồng cân
+ Quế chi: 5 đồng cân
Dùng chỉ ngũ sắc kết phù “Tứ tung Ngũ
hoành” để trên mặt thuốc, cho vào túi vải yểm trong quan tài.
4.
Dùng các bộ Linh phù để trấn bằng cách dùng Linh phù để gối đầu người đã khuất,
dán lên giữa ngực, giữa rốn, hoặc lót dưới quan tài:
* Theo cách của đạo Phật:
- Trước khi liệm: Dùng 6 lá Linh phù
Lục tự Đại minh (OM MANY PADME HUM - viết trên giấy vàng, chữ đỏ) có kích thước
31 x 10.5 cm viết theo chiều dọc từ trên xuống dán vào thành trong của quan tài
tại đầu, chân, hai bên vai, hai bên hông. Những Linh phù này có tác dụng trấn
tà khí của linh hồn. Khi chôn: Vong Nam 7, Vong Nữ 9 quả trứng vịt đã luộc
chín, để trên nắp quan tài phía trên vùng bụng, dùng một cái niêu đất úp lên
trứng, sau đó lấp đất. Cách này dùng để thu nốt những Tà khí còn sót lại.
- Sau khi chôn: người ta lại dùng
108 cọc tre đực đóng trên mộ, 36 cọc tre hoá đóng ở nhà. Trên mộ cột thêm 1 con
quạ hoặc con gà mái đen.
* Theo cách của Đạo gia: Dùng Linh phù ngũ trấn.
Dùng Ngũ linh độn số chọn thời gian
khâm liệm, thời gian di quan (chuyển quan tài ra khỏi nhà), thời gian hạ huyệt.
Tại mỗi thời điểm trên ta có một quẻ Ngũ linh (tránh những quẻ Lục xung, quẻ có
tượng xấu, Dụng khắc Thể, Thể sinh Dụng, quẻ có hào Thái tuế động). Trước khi
khâm liệm: Dùng giấy mầu vàng hai mặt có kích thước 30 x 10,5 cm vẽ quẻ Dịch
của ba thời điểm trên, mặt kia vẽ Thư phù (Dịch tự của quẻ đó). Quẻ của Cục
khâm liệm dán ở thành trong phía đầu quan tài. Lưu ý mặt có Quẻ dán úp vào mặt
gỗ, mặt có Dịch tự quay ra ngoài. Quẻ của Cục di quan dán ở chân quan tài. Quẻ
của Cục hạ huyệt dán ở bên vai. Khi chôn cũng dùng 7 hoặc 9 quả trứng vịt như ở
phần trên.
* Theo cách của Mật Tông: Dùng Thần chú Tán sa
của Đại Nhật Như Lai:
Dùng
cát sạch của ba dòng sông. Lấy cát giữa lòng sông đem về phơi khô, trộn vào ít
châu sa, thần sa, để trong chén nước sạch. Tay kiết ấn Bảo Thủ bưng chén cát,
còn tay mặt kiết ấn Cát Tường. Mắt ngó vào chén cát, miệng tụng Thần chú Tỳ Lô
108 biến làm chừng, gia trì cho được ba đêm rồi đem cát ấy rải lên mồ mả hay
thi hài của người chết trùng, hay chết bất đắc kỳ tử mà vong nhân không siêu
được, làm phương pháp này liền được siêu sinh. Hoặc viết Thần chú này trên vải,
giấy vàng rồi đắp lên thi hài người chết, vong họ sẽ nhờ chú lực được siêu sinh
cõi Phật.
Khi
làm lễ, vái trước hồng danh các vị sau đây 3 lần rồi mới trì chú:
Nam mô ơn trên Tam Bảo,
Nam mô Thập phương Chư Phật,
Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật,
Nam mô Chư Như Lai, Chư Bồ tát, Chư
Thiên, Chư Thánh, Chư Thần,
Chư vị Thổ Địa, Long Thần đưa các
vong linh vô hình về bên kia thế giới.
Om A Mô Ga Vai Ro Cha Na, Ma Ha Musđơra Mani
Pasmêjôlabra, Vat Ddada Hùm Hơrit Brum.
* Cách nữa là dùng linh phù Tứ tung Ngũ hoành
hay phù của Chuẩn đề:
Theo
hiểu biết thì dùng Linh phù Chuẩn đề tốt hơn vì một bên là Giáo hóa các Linh
hồn, một bên là dùng Luật. Dùng giấy vàng gấp theo hình Bát quái và dùng mực đỏ
để vẽ Linh phù. Vẽ Linh phù Chuẩn đề thì dùng nghi tụng niệm tới trước phần Bát
nhã thì bắt đầu đọc 108 biến của Chú Chuẩn đề. Sau đó tác bạch lý do và vẽ Phạn
tự Chuẩn đề vòng quanh Bát quái. Chữ “Ohm”
vẽ ở tâm của Bát quái vẽ trước. Sau đó đọc Chú Hồi hướng cho vong được siêu
sinh tịnh độ.
Nếu
dùng Linh phù Tứ tung Ngũ hoành thì cũng đọc nghi tụng tới trước Kinh Bát nhã
thì cũng dùng giấy vàng chữ đỏ, giấy gấp hình Bát quái, vừa vẽ vừa đọc Chú Tứ
tung Ngũ hoành (Khi đọc niệm chú, tay trái để trước ngực trong tư thế lạy,
tay phải cầm 3 cây hương đang cháy, huơ theo đường vẽ kết chỉ hình Tứ tung
Ngũ hoành và xướng): Nhất tung khai
Thiên môn, Nhị tung bế Địa hộ, Tam tung lưu Nhân ngôn, Tứ tung sát Quỷ lộ.
Nhất hoành trừ Nạn khổ, Nhị hoành độ
Nhân thân, Tam hoành trừ Ác tặc, Tứ hoành trừ Sát nhân, Ngũ hoành trừ Hung
thần. Cấp cấp như Cửu Thiên Huyền Nữ Y Như Luật Lệnh.
|
|
Đọc 7 lần bài niệm chú, thì ngậm một
ngụm rượu phun lên bài thuốc, gói tờ giất trang kim lại vuông vắn, để vào một
túi vải buộc túm miệng lại, đem vào để lên rốn người chết, và đậy nắp quan tài,
coi như là đã xong việc trấn trùng, có thể khởi hành việc chôn cất.
Lưu
ý: Khi
vẽ Linh phù Tứ tung Ngũ hoành, tới đoạn cuối có 3 vòng khoeng, Sau khi vẽ xong
cũng đọc chú Hồi hướng cho Vong như ở trên, khi khâm liệm, bỏ những lá Linh phù
đó vào trong quan tài.
5.
Dùng bài thuốc kết hợp giữa Sớ, Phù Bắc Tông và Kỳ nam để xông vào mộ và người
sống, để cầu siêu, giải thoát cho trùng, biến từ âm binh thành thiên binh
6. Áp
dụng phương pháp làm huyệt giả, đổ tỏi vào huyệt khi lấp đất để hoá giải.
7. Tìm
1 bộ bài Tổ tôm cũ (tức là đã chơi cũ rồi) bỏ mấy con Bát sách đi, số còn lại
lấy rải đều ở 4 góc quan tài trong lúc đang liệm. Cách tương tự là dùng bộ bài
Chắn gồm 120 quân bỏ 20 quân Yêu đi, tức là bỏ bộ Nhất và bộ Nhị, chứ không bỏ
Bát sách. Kèm theo là 1 cuốn lịch Tàu hoặc bộ sách Trương Thiên Sư, và bộ Bùa
trùng tang.
8. Theo
phương pháp của Tiên Gia, Phù thủy, Đạo gia thường là những phương pháp bắt
nhốt Trùng. Vị Pháp sư đã dùng lực và sức mạnh của Thày Tổ, Thần linh, binh gia
bắt nhốt Trùng và vong linh người mất cho vào hũ và trấn bằng những lá Bùa trên
miệng để khỏi chạy ra. Cách này tuy hiệu quả nhưng thực ra rất nguy hiểm, vì
khi công lực của Thày còn cao, Trùng còn phải chịu hãm trong vòng tù ngục,
nhưng khi Thày chết đi rồi, không còn ai cai quản nhà tù nữa, Trùng sẽ thoát ra
gây ảnh hưởng rất nặng đến gia đình Thày và Thân chủ.
9. Trùng
nặng thì người ta dùng con cóc màu vàng đang chửa để luyện thành thần tướng hộ
vong.
10. Trường
hợp nặng hơn thì người ta dùng bộ gạo nếp nặn thành 12 ông thần trùng, sau khi
làm phép thì dùng dao chặt đầu rồi nặn thành 1 hình nhân, dùng quan tài bằng
lúc lác tẩm liệm rồi dùng 1 quả trứng vịt cắm 13 cây kim, đoạn dùng bè chuối;
chọn giờ thiên giải thì thả xuôi ra sông.
11. Phương
pháp rất hiệu quả là tụng Kinh Hồi hướng cho vong siêu thoát, sau đó hồi hướng
công đức cho họ. Phương pháp này dùng những năng lực của Phật pháp, siêu độ cho
Trùng rất tốt, khiến cho Trùng sớm siêu thăng tịnh độ, không còn làm ác được
(lễ giải oan cắt kết). Tuy vậy, một số trường hợp nghiệp quá nặng nên vẫn phải
chết thêm từ 1 đến 2 người mới cắt Trùng được.
12. Phương
pháp dùng Muối biển (muối hạt): cân 100kg, lấy túi nilon đóng thành bao nhỏ và
đắp quanh thành mộ cho tới khi mãn tang, an toàn rồi thì đem muối trả về biển
để muối tự gột sạch tà khí, trở về với tinh nguyên. Cách này hiệu quả cao và rẻ
tiền, không phải cúng bái lôi thôi. Muối biển có khả năng thu liễm tà khí không
cho phát tán, đồng thời khiến cho ngôi mộ tăng tụ sinh khí.
13.
Phương pháp dùng đá thạch anh: Thạch anh là loại đá dùng tránh tà khí, trấn
trạch, được sử dụng phổ thông nhất hiện nay. Thay vì dùng đá hoa cương ốp mộ,
thì dùng đá thạch anh dăm (khoảng 20kg) trộn với xi măng để ốp thành mộ. Xây
lăng mộ bằng đá thạch anh thì tuy giá thành hơi cao, nhưng giá trị thì lâu dài,
không chỉ trấn được Trùng tang, mà còn giúp quy tụ sinh khí, khiến cho linh hồn
mạnh khoẻ, linh thiêng hơn.
14.
Cách cuối cùng của Pháp sư: Dùng Bát quái trận đồ trấn âm trạch hóa giải. Cách
này dùng sau khi đã chôn mà không chọn được ngày, giờ tốt vì một lý do nào đó, hoặc
sau khi chôn một thời gian, mộ phát tác những điều xấu đều có thể hóa giải được
rất linh nghiệm
Lưu
ý:
Khi tìm thầy hóa giải Trùng tang phải là các vị sư, pháp sư có sắc, ấn, lệnh
mới đủ năng lực giải trùng
III: PHÒNG TRÁNH VIỆC TRÙNG TANG:
Ngay sau khi trong nhà có người mất, việc đầu tiên là phải
tính xem có phạm Trùng tang liên táng hay không. Tuy vậy, cách tính chỉ là
tương đối vì có nhiều trường hợp tính bị trùng tang nhưng thực tế lại không trùng,
hoặc ngược lại, vì việc trùng hay không còn phụ thuộc vào âm đức nhà người mất
và chính người đó.
Khi làm lễ nhập liệm cần lưu ý kiêng kỵ:
- Người nhà kiêng người Tam hợp tuổi, kiêng tuổi xung, kiêng
tuổi Hình với Vong mệnh.
Có 3 tuổi phải kỵ: Con trai trưởng nam tuổi Dần; dâu trưởng
nam tuổi Mão; cháu trưởng nam tuổi Thìn. Kỵ giờ Dần, Mão, Thìn khi liệm phải
tránh đi. Người chết không có con, dâu và cháu trưởng trên thì cần tránh anh
trưởng và cha mẹ.
- Kỵ “Long, Hổ, Kê, Xà
tứ sinh nhân ngoại” (Người khách các tuổi Thìn, Dần, Dậu, Tỵ không được có
mặt khi khâm liệm).
- Kiêng người có cung phi Bát trạch xung khắc với Vong mệnh.
- Kiêng khóc thành tiếng khi đang liệm.
Sau khi tính ra người mất bị phạm trùng tang thì những người
thuộc Tam hợp chi (tuổi) cùng với chi Trùng tang phải tránh mặt lúc khâm liệm.
Ví dụ: Trùng tang tại Tỵ, vậy tam hợp của Tỵ là Dậu và Sửu bị phạm. Ngoài tránh
mặt lúc khâm liệm thì những người này còn cần phải tránh cả lúc nhập quan, đóng
cá và đặc biệt là cả tránh lúc hạ huyệt, lấp đất.
IV. MỘT
SỐ KIÊNG KỴ SAU KHI ĐÃ TRẤN TRÙNG:
+
Người chết trùng tang sau khi chôn thì không được lập bàn thờ tại gia, cũng như
không được tổ chức cúng giỗ trong nhà. Bát hương tạm thời để lại trên mộ. Việc
cúng thất tuần (49 ngày) phải nhờ người bà con họ xa bên ngoại, hoặc người
ngoài thân tộc đem cơm nước ra cúng tại mộ. Chỉ khi mãn tang rồi, mà gia quyến,
nội tộc không gặp trùng tang nào nữa, thì khi đó mới được lập bàn thờ để hương
khói.
+
Trong suốt thời kỳ chưa mãn tang, gia quyến khi hương khói gia tiên, tuyệt đối
không gọi hồn, nhắc tên người chết, linh hồn có thể nghe được tiếng gọi đó để lần
theo khói hương mà về bắt người thân đem đi, dù không có thờ phụng người chết
trùng tang trong nhà.
+
Người chết trùng tang, gia quyến không nên tổ chức xây mộ tròn, hay đem hoả
táng ngay, bởi còn phải chờ giải Trùng tang sau khi mãn tang. Nếu hết mãn tang
mà trong gia quyến, nội tộc không có người chết Trùng tang tiếp theo, thì nghĩa
là việc trấn trùng đã thành công. Khi đó, mới rước bát hương về thờ phụng bình
thường như các gia tiên khác. Về sau, giải trấn trùng cho người chết bằng cách,
khi cải táng, thì đem đốt bỏ bài thuốc trấn trùng đi, rửa di cốt bằng nước thơm
ngũ vị hương khi sang tiểu là được.
+ Nếu
trong thời gian trấn trùng, mà trong gia quyến, nội tộc có người chết hội đủ
năm, tháng, ngày, giờ Nhập mộ thì cũng coi như Trùng tang đã được hoá giải, gia
đình, nội tộc không cần lo lắng nữa.
+ Đối
với trường hợp người chết đã chôn cất xong rồi mới phát hiện trùng tang, liền
đem nguyên bàn thờ người chết ra sân làm thủ tục trấn trùng như trên, sau đó
khênh nguyên cả bàn thờ ra mộ, để gói thuốc trấn trùng lên mộ, đặt bát hương
lên, các thứ khác đốt bỏ tại mộ. Sau này hết Trùng tang, lập mới lại bàn thờ
khác rồi mới đem bát hương về thờ phụng.
(Phạm Hùng, sưu tầm vào khảo cứu)