18 tháng 5, 2011

“MỘT DÂN TỘC DỐT LÀ MỘT DÂN TỘC YẾU”

VietNamNet, 18/5/2011
Những bức thư Hồ Chí Minh gửi nhân ngày khai trường, mỗi câu nói trong những buổi gặp gỡ với thầy giáo, cô giáo, học sinh, phụ huynh học sinh... thật giản dị nhưng chứa đựng nhiều bài học quý về giáo dục.
Ngay từ những năm đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Hồ Chí Minh đã quan tâm tới giáo dục.
Những sắc lệnh đầu tiên của nước Việt Nam non trẻ là hai việc: cứu đói cho dân và học hành.
Người đứng đầu Nhà nước khi đó đã xếp hai công việc này vào hàng bức thiết lúc bấy giờ. Đói - chết, nhưng không có học cũng chết. Bởi: “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”.
Hồ Chí Minh viết: “Nạn dốt là một trong những phương pháp độc ác mà bọn thực dân dùng để cai trị chúng ta. Hơn chín mươi phần trăm đồng bào chúng ta mù chữ… Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy tôi đề nghị mở một chiến dịch để chống nạn mù chữ.
Bất cứ thời đại nào, một dân tộc yếu luôn là một nước nhược tiểu, lăm le bị đe doạ từ nhiều phía.
Hôm nay ai cũng vui vì Nhà nước coi “giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Tầm quan trọng của tri thức, của nguồn nhân lực chất lượng cao, thêm một lần nữa, được nhấn mạnh và đề cao.
Trong điều kiện đất nước còn nghèo, Nhà nước cũng đã cố gắng chi hơn 20% tổng chi ngân sách hàng năm cho giáo dục.
Cách đây 66 năm, trong những ngày mùa Thu Tháng Tám lịch sử, với những sắc lệnh đầu tiên cho bình dân học vụ, với mục tiêu diệt giặc đói và giặc dốt, Hồ Chí Minh đã thực sự coi giáo dục là quốc sách. Giáo dục có vai trò quan trọng đặc biệt ngay trong điều kiện của một đất nước non trẻ, đang đối mặt với nạn đói, đang chống chọi với đủ loại kẻ thù nội và ngoại xâm.  
Ngày hôm nay, các nhà sư phạm đưa ra khẩu hiệu: “Lấy học sinh làm trung tâm” rồi nhiều hội thảo, tranh luận nảy lửa xem giáo viên đóng vai trò then chốt hay quyết định…
Nhưng hãy xem lá thư gửi cho giáo viên và học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Hồ Chủ tịch viết: Dân tộc Việt Nam có vẻ vang sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không là nhờ một phần lớn vào công lao học tập của các em”. Không phải một phần mà là phần lớn công học tập.
Viết câu này, Hồ Chí Minh đã trao trách nhiệm cho học sinh, thực sự đã coi học sinh là chủ thể học tập. Đồng thời, trong nhà trường phải thi đua dạy tốt và học tốt.
Hôm nay, có nhiều cuộc vận động, nhiều phong trào, nhiều giải pháp liên quan đến đổi mới phương pháp dạy học.
Nhưng cũng chính vào cái thời điểm đất nước vừa tuyên bố độc lập thì Hồ Chí Minh đã xác định ngay: Học phải đi đôi với hành. “Đào tạo phải gắn với nhu cầu xã hội” là yêu cầu cấp thiết của ngành giáo dục hiện nay. Thực ra yêu cầu này không mới. Ngay trong những ngày đầu lập nước và trong thời gian đấu tranh thống nhất đất nước, Hồ Chí Minh đã nhiều lần căn dặn: “Học phải có mục đích. Học trong nhà trường phải gắn liền với lao động, sản xuất.
Hôm nay, nơi này nơi kia còn trăn trở với cách giáo dục nhồi sọ, thì ngay từ những năm chống thực dân Pháp, trong thư gửi hội nghị cán bộ phụ trách nhi đồng toàn quốc tháng 8/1950, Hồ Chí Minh đã chỉ ra cách dạy trẻ: “Cần làm cho chúng biết yêu Tổ quốc, thương đồng bào, yêu lao động, biết vệ sinh, giữ kỷ luật, học văn hóa. Đồng thời phải giữ toàn vẹn tính vui vẻ, hoạt bát, tự nhiên, tự động, trẻ trung của chúng, chớ làm cho chúng trở nên già cả.”
Hầu như tất cả những công việc mà giáo dục hôm nay đang tất bật triển khai, thì dường như, Hồ Chí Minh đã đề cập cách đây hơn 60 năm với lối nói nhẹ nhàng, kín đáo, giản dị; bằng tất cả sự trải nghiệm của một người bôn ba nhiều châu lục,  nhận thức sâu sắc sự kém cỏi, yếu đuối của một dân tộc thiếu cái chữ, thiếu hiền tài.
Ngô Thiệu Phong

KHÔNG NÊN CỘNG THÊM CÁI GÌ VÀO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Theo: TuanVietNam, 19/5/2008
“Đừng cố tìm ở Hồ Chí Minh cái gì cũng đều có, cũng đều “vĩ đại”, vì như vậy chính là xuyên tạc, hạ thấp hoặc là bôi nhọ tư tưởng Hồ Chí Minh” - GS Tương Lai đưa ra một vài gợi ý để hiểu sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh.
 
“Tư tưởng Hồ Chí Minh” không đơn thuần chỉ là sự vận dụng một cách sáng tạo những tư tưởng lí luận của “học thuyết C.Mác” vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. Hồ Chí Minh không chỉ tiếp thu những phần tinh tuý nhất của học thuyết khoa học và cách mạng đó. Là một nhà cách mạng chuyên nghiệp đã bôn ba khắp năm châu bốn biển, Hồ Chí Minh đã hấp thu vào mình trí tuệ, văn hoá của cả loài người, vì thế, Bác Hồ được thế giới nói đến như là một danh nhân văn hoá.
Có được điều đó, trước hết là do Hồ Chí Minh am hiểu sâu sắc về dân tộc mình, thấm nhuần lịch sử và văn hoá của dân tộc. Nhờ nắm vững phương pháp biện chứng của học thuyết C.Mác gắn với tư duy thực tiễn của người cách mạng Việt Nam gắn bó máu thịt với dân tộc mình, tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của sự kết hợp hài hoà đó.
Nhân kỉ niệm lần thứ 118 ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, xin mạnh dạn gợi lên đôi điều suy nghĩ: làm thế nào nghiên cứu để hiểu thật sâu sắc, để thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh. Xin chỉ gợi lên mấy vấn đề về hiểu và về phương pháp nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh:
Con người Hồ Chí Minh
Nói đến tư tưởng, trước hết phải nói đến con người. Con người mà cuộc đờisự nghiệp gắn liền với những sự kiện lịch sử Việt Nam, với những biến động lớn của thế giới trong một thời đoạn lịch sử đặc biệt với những biến động cực lớn.
Nguyễn Ái Quốc đến với học thuyết của C.Mác và Ph.Ăngghen, đến với tư tưởng của V.I.Lênin, từ thân phận của một người mất nước, một người dân thuộc địa, một người được hấp thu nền học vấn và triết lí phương Đông, rồi được bổ sung văn hóa và triết lí phương Tây, trước hết là văn hóa Pháp. Con người ấy, so với C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin, thì trải nhiều oan nghiệt, cay đắng về thân phận cá nhân hơn nhiều. Từ thân phận ấy, Hồ Chí Minh dễ có sự thông cảm sâu sắc hơn và mãnh liệt hơn với người dân thuộc địa nói riêng và những người lao động nghèo khổ, những dân tộc đang bị nô lệ, bị giày xéo phải gánh chịu áp bức, bất công trên thế giới nói chung. Sự cảm thông ấy không chỉ dừng lại ở thân phận cá nhân để nhìn ngắm và suy đoán về thế giới, mà đã vượt khỏi chính mình để có được cái tầm cao của người chiến sĩ cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng con người.
Là con người sống ở gần ba phần tư đầu thế kỉ XX, Hồ Chí Minh có điều kiện để thấy và hiểu được sự sụp đổ của hệ thống thuộc địa với phong trào giải phóng dân tộc làm thay đổi cục diện thế giới từ sau chiến thắng Điện Biên Phủ của Việt Nam, tạo ra một phản ứng dây chuyền, đánh sụp chủ nghĩa thực dân cũ, xuất hiện chủ nghĩa thực dân mới. Ba phần tư thế kỉ này chất chứa bao nhiêu sự biến, tác động mạnh đến số phận của nhiều dân tộc trên hành tinh này.
Tuy nhiên, cũng như C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin, Hồ Chí Minh không thấy được những biến động dữ dội về đời sống chính trị làm thay đổi diện mạo của thế giới mà sự sụp đổ của Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa cùng với những bước tiến như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ của một phần tư cuối thế kỉ XX bước sang thế kỉ XXI, những sự biến nổi bật nhất. Đặc biệt khoa học và công nghệ, một phần tư thế kỉ này có những bước tiến lớn hơn rất nhiều những thế kỉ trước gộp lại.
Chứng kiến những biến động ấy khiến cho tầm mắt không ít người đươc mở rộng hơn nhờ vào “sự xé toang một tấm màng bưng bít, sự hiện ra và sáng lên của sự thật, sự tan vỡ một số huyền thoại, sự phá sản nhiều giáo điều, sự bộc lộ những sai lầm trầm kha, sự nhận thức mới, không phải về lí tưởng mà về lí luận cách mạng, thực tiễn hoạt động và thực tế đời sống, sự khơi dậy những niềm hi vọng mới, sự bắt đầu một quá trình thanh lọc và tái tạo đầy hứa hẹn”.
Hồ Chí Minh đã từng là người đứng ở vị trí quyền lực cao nhất của Đảng và Nhà nước của một nước Việt Nam đã giành được độc lập, tự do trong 24 năm, từ tháng 8/1945 đến tháng 9/1969, sau cũng ngần ấy năm đã từng là lãnh tụ của Đảng, của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc trước 1945. So với V.I.Lênin chỉ có 7 năm lãnh đạo Nhà nước Xô Viết (1917-1924), Hồ Chí Minh có hơn gấp ba thời gian ở cương vị Chủ tịch nước. Với 24 năm là lãnh tụ của một Đảng cầm quyền, là Chủ tịch nước, đứng ở đỉnh cao quyền lực, song Hồ Chí Minh trước sau vẫn thủy chung như nhất là người lãnh tụ của nhân dân, gắn bó máu thịt với nhân dân, chiếm trọn trái tim của nhân dân, xứng đáng với lời ghi nhận của nhân dân và của Đảng: “Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch, người anh hùng dân tộc vĩ đại, và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta”.
So với C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin, học vấn của Hồ Chí Minh không bằng, bù vào đấy là sự thâm nhập vào cuộc sống, lăn lộn nhiều hơn, đi nhiều hơn, thấy nhiều hơn, đến được nhiều chân trời hơn, sống với nỗi khổ đau của con người nhiều hơn. Những con người ở nhiều đất nước, nhiều châu lục, nhiều màu da, nhiều tiếng nói, nhất là tiếng nói của những người cùng khổ.
Quả là hiếm có lãnh tụ cách mạng nào có điều kiện tắm mình trong những quằn quại suy tư, những khát vọng rộng lớn của con người đến như vậy. Hồ Chí Minh, vì thế, là người chiến sĩ cách mạng có những rung động của một nhà thơ. Nhà thơ trong nhà cách mạng Hồ Chí Minh. Để có được một số bài thơ hay mà không phải nhà cách mạng nào cũng có được:  “Trong tâm hồn Hồ Chí Minh luôn luôn phảng phất có thơ” (Phạm Văn Đồng). Đấy là một nét độc đáo trong nhân cách Hồ Chí Minh. Điều này khiến cho Hồ Chí Minh biết cảm nhận và rung động mãnh liệt, sâu lắng với con người trong sự sống đa dạng và phức tạp của nó.
Tầm vóc Hồ Chí Minh
Tầm vóc của con người, cuộc đời và sự nghiệp Hồ Chí Minh có thể nói gọn lại trong năm điểm nổi bật sau đây:
Trước hết và sau cùng, Hồ Chí Minh là một con người rất người, một người Việt Nam rất Việt Nam. Đúng là “dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chí Minh” theo đúng nghĩa sâu sắc, đậm đặc và rất nhất quán một nhân cách Hồ Chí Minh, một đường nét văn hóa Hồ Chí Minh rất Việt Nam. Những gì là lí luận, là khoa học, là uyên bác, là thâm thúy đều có trong Hồ Chí Minh song đó chính là sự hòa quyện, sự kết đọng của sự thông tuệ dân gian.
Đó là sự thông minh, tế nhị và mộc mạc của tinh hoa văn hóa Việt Nam thể hiện trong ứng xử hàng ngày của người dân quê trên đồng ruộng, giữa núi rừng, nơi “thôn cùng xóm vắng” (Nguyễn Trãi). Những uyên bác, những thâm thúy, những tế nhị và mộc mạc hòa quyện vào trong sự thông tuệ dân gian ấy được Hồ Chí Minh tiếp thu một cách hồn nhiên, thoải mái và có chọn lọc, để rồi thể hiện ra một cách dung dị nhưng không kém phần sâu lắng tế nhị, không kém phần minh triết trong cái khôn ngoan dân dã Việt Nam!
Chính điều này vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của sự gắn bó máu thịt giữa lãnh tụ và quần chúng, niềm tin yêu của nhân dân dành cho lãnh tụ của mình và là “ham muốn, ham muốn đến tột bậc” của Hồ Chí Minh về cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân mình.
Với đặc điểm này, cho dù với sự khiêm tốn tuyệt đối cần thiết, cũng phải nói rằng, so với những lãnh tụ cách mạng khác, Hồ Chí Minh có sự kết đọng đậm đặc hơn, quán triệt hơn, sâu xa và thấm thía hơn trong sự gắn bó tin yêu với nhân dân của mình và đồng thời hình ảnh Hồ Chí Minh sống trọn vẹn trong trái tim của họ. Hồ Chí Minh ở trong họ, gần gũi thân thiết với họ, nâng họ lên để cùng đứng với mình chứ không bao giờ đứng trên họ. Hồ Chí Minh với nhân dân mình là một.
Nói như nhà báo Úc Burchett: “Nói tới một người mà cả cuộc đời mình để lại ân tình sâu nặng trong nhân dân thì không có ai ngoài Chủ tịch Hồ Chí Minh”, và như đòi hỏi của Charles Fourniau, nhà sử học Pháp: “cần làm nổi bật một cách hiển nhiên và trên mọi tầm vóc, hình ảnh một con người đã là một trong ba hoặc bốn nhân vật vĩ đại nhất của phong trào công nhân và cách mạng thế giới, một trong những vĩ nhân của thế kỉ chúng ta”.
Hồ Chí Minh là con người của hành động, hành động rất thiết thực. Con người ấy không viết nhiều, không nói nhiều, không viết dài nói dài, song là con người làm, làm rất nhiều. Con người ấy nói ít, làm nhiều, thậm chí không cần nói, chỉ cần làm để rồi bằng việc làm cụ thể mà thuyết phục người ta làm theo mình. Nhưng như thế không hề là chủ thuyết của một nhà “triết học vô ngôn”, hoặc một “chính khách vô ngôn”. Hồ Chí Minh không phải không có những tác phẩm, những công trình, những bài viết, những diễn văn, những lời kêu gọi... Nhưng, tác phẩm lớn hơn cả, bài học sâu sắc nhất chính là cả cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh.
Giờ đây đọc lại hệ thống luận điểm của Hồ Chí Minh, khởi đầu từ những năm 20 của thế kỉ trước, cho đến tư tưởng chỉ đạo hai cuộc chiến tranh cứu nước, giải phóng dân tộc là trước sau như một nhất quán với tinh thần “Không có gì quí hơn độc lập tự do” mới thấy “vào thời ấy, hệ thống luận điểm của Hồ Chí Minh mới mẻ đến kì lạ, khó lòng tưởng tượng. Nó nằm trong dòng sáng tạo cách mạng của những con người mà cống hiến lí luận và sự nghiệp đấu tranh vạch đường cho thời đại” (Phạm Văn Đồng).
Đó là một con người sáng tạo, rất sáng tạo, con người đổi mới, thường xuyên đổi mới, đổi mới rất táo bạo. Con người ấy “có sự dị ứng bẩm sinh với bệnh giáo điều rập khuôn, bệnh công thức sáo mòn”. Từ quan điểm, đường lối cho đến cách sống, cách nói, cách viết, Hồ Chí Minh quyết liệt chống sự sáo mòn, hướng tới cái thiết thực, đạt tới hiệu quả cao nhất.
Trong con người ấy có sự hòa quyện nhuần nhị lí trí với tình cảm và tâm linh, sự gắn kết rất tự nhiên giữa tâm hồn nhạy cảm của một nhà thơ, với bản lĩnh tinh nhạy của một chính khách, và sự khoan hòa nhân ái của một lãnh tụ nhân dân. Đặc điểm nổi bật ấy tạo ra phong thái rất độc đáo của Hồ Chí Minh không trộn lẫn vào đâu được. Nhờ vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh đến với mọi tầng lớp nhân dân một cách dễ dàng vì nó gần gũi với cách cảm, cách nghĩ của họ, vừa rất truyền thống, vừa rất hiện đại. Biết cách làm cho dễ hiểu để đến được với người có trình độ học vấn thấp, song lại biết cách nâng cao lên để diễn đạt được chân lí của cuộc sống, thể hiện được khát vọng thầm kín và sâu xa của con người, nhất là những con người cùng khổ, con người bị áp bức.
Cách tư duy cũng như cách ứng xử của Hồ Chí Minh, như có người nhận xét, “vừa rất ta, vừa rất tây”, đây cũng là một nét độc đáo rất Hồ Chí Minh. Đã có người quan sát và kể lại cách Hồ Chí Minh chọn và ngắt một bông hoa hồng trong vườn Phủ Chủ tịch để tặng một người phụ nữ Pháp là 100% châu Âu. Nhưng cách Bác Hồ bưng bát nước chè xanh của một cụ già nông dân mời, vừa thổi, vừa uống thì 100% là Việt Nam. Ở trong ứng xử cũng như trong cách viết, cách trả lời nhà báo nước ngoài, cách diễn đạt những mệnh đề lí luận của Hồ Chí Minh có sự tinh tế nhuần nhuyễn của những đường nét triết lí phương Đông và văn hóa phương Tây, vừa dân tộc vừa quốc tế. Việt Nam, Phương Đông, Phương Tây, thế giới, thời đại đều có trong cốt cách ứng xử của Hồ Chí Minh. Không quá cường điệu khi Hélène Tourmaire, một nhà văn và cũng là nhà báo viết: “Hình ảnh Hồ Chí Minh đã hoàn chỉnh với sự kết hợp đức khôn ngoan của Phật, lòng bác ái của Chúa, triết học của Mác, thiên tài cách mạng của Lênin và tình cảm của một người chủ gia tộc, tất cả bao bọc trong một dáng dấp rất tự nhiên”.
Có thể nói một trong những nét độc đáo nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh là tính hệ thống đồng bộ của nó. Hệ thống đồng bộ trong những quan hệ tương tác với nhau, thâm nhập vào nhau, chuyển hóa thành nhau của chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, tức là các chiều cạnh của cuộc sống xã hội. Đây chính là khái niệm mới về nền văn minh.
Hồ Chí Minh không bị đẩy lệch về kinh tế, không rơi vào “kinh tế luận”, cũng không bị đẩy lệch về chính trị để rơi vào cái vũng bùn của quan điểm “chính trị là thống soái” từng gây nên bao thảm họa. Hồ Chí Minh càng không lệch về quân sự, để rơi vào sự sùng bái bạo lực, “chính quyền ra đời từ đầu ngọn súng” đấu tranh giai cấp, “một mất một còn” trong cuộc chiến “ai thắng ai”, cội nguồn của bao tai họa mà di lụy của nó vẫn chưa gột sạch, có lúc lại trở thành cách đánh lạc hướng những đòi hỏi về dân chủ, dân quyền và dân sinh rất thiết thực trong đời sống của người dân.
Không bị rơi vào những sai lầm, lệch lạc đó, vì Hồ Chí Minh có nhận thức sâu sằc về tính hệ thống đồng bộ xã hội, và trong tổng thể xã hội ấy, một quan niệm về xã hội mới mà Hồ Chí Minh muốn xây dựng. Trong ấy, Hồ Chí Minh đặt con người ở vị trí trung tâm. Đó là nét đặc sắc nổi bật của tư tưởng Hồ Chí Minh. Mà như thế có nghĩa là đặc biệt coi trọng về văn hóa, vì nói đến con người chính là nói đến văn hóa.                                        
Hồ Chí Minh đã làm hết sức mình để nâng cao trình độ phát triển kinh tế của đất nước. Không coi nhẹ kinh tế, không coi nhẹ chính trị, nhưng đặc biệt coi trọng văn hóa. Cố nâng đời sống kinh tế lên cho từng người, từng nhóm người, đặc biệt cho nhóm người đang có mức sống quá thấp, để trên cái nền của đời sống vật chất được nâng cao dần lên đó, mà có điều kiện đem lại hạnh phúc cho con người. Vì vậy, văn hóa là nhân tố đặc biệt quan trọng. Văn hóa bao gồm trí tuệ, tình cảm, phẩm chất, đạo đức, tóm lại là “cuộc sống người của con người”.
Với đặc sắc tư tưởng nổi bật như vậy, Hồ Chí Minh đã mở ra con đường và phương pháp xây dựng xã hội mới của Việt Nam, cũng có thể có giá trị đối với các nước đang phát triển. Thấy khoa học, thấy công nghệ, thấy kinh tế, thấy lí trí và trí tuệ, nhưng những cái đó không phải cái đặc sắc và sáng tạo của Hồ Chí Minh. Chỗ đặc sắc và sáng tạo của Hồ Chí Minh là nhận thức sâu sắc về tổng thể con người, về văn hóa. Tổng thế và văn hóa, tức là con người. Đó chính là tầm nhìn và cách tư duy để tìm kiếm con đường hiện đại, có thể rút ngắn đoạn đường, đi tắt để phát triển.
Quán triệt điểm đặc sắc ấy của tư tưởng Hồ Chí Minh, thì về kinh tế sẽ tránh rơi vào nền kinh tế thị trường hoang dã, chộp giật, mà làm kinh tế, làm chính trị là để nhằm tôn vinh dân chủ, tức là tôn vinh người dân và con người. Nếu làm kinh tế thị trường đơn thuần với chính trị với hàm nghĩa những mưu lược, thì mục tiêu dù đạt được cũng dễ làm mất văn hóa, dễ “nuốt trôi” mất văn hóa. Ngược lại, xuất phát từ văn hóa, tức là từ con người thì sẽ nâng cao kinh tế và chính trị lên với những nội dung văn hóa được đưa vào. Nếu hiểu sâu sắc đặc điểm nổi trội ấy của tư tưởng Hồ Chí Minh, sẽ giúp hình thành một hệ thống giá trị chân chính của xã hội mới.
Từ nét đặc điểm nổi trội ấy mà nhận ra tinh thần đại đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Đại đoàn kết để xây dựng xã hội mới. Mãi mãi đại đoàn kết dân tộc. Đây là điểm độc đáo của tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin không tìm thấy điều này, hoặc nếu có đôi điều nói thoáng qua, chứ không tập trung, nổi bật như của Hồ Chí Minh.
Qua quá trình tiến lên của cách mạng, mục tiêu, động lựclực lượng không hề có sự sắp xếp loại bỏ, thay đổi, chỉ có sự nâng cao về chất mà không bớt đi về lượng, về số tầng lớp, số người tham gia. Nghĩa là với Hồ Chí Minh, không có chuyện một bộ phận nào đó của nhân dân, một tầng lớp xã hội nào đó nửa chừng đứt gánh, không thể cùng chung con đường mình đang đi. Không có chuyện ai đó, tầng lớp nào đó chỉ là “bạn đường một đoạn” trong cả chặng đường dài, vì họ không còn đủ điều kiện theo đến cùng nên phải thải loại ra.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh không có luận điểm về sắp xếp lực lượng cách mạng trong từng giai đoạn, bố trí chiến lược, chiến thuật về lực lượng: lực lượng chủ lực, lực lượng đồng minh gần tức là đồng minh chiến lược, rồi đồng minh xa, tức là đồng minh chiến thuật, lực lượng trung lập lâu dài hoặc trung lập từng lúc một như trong những chỉ dẫn của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh có thể có những thay đổi về mục tiêu cụ thể, thay đổi về nhiệm vụ, chủ trương và phương pháp nhưng không có sự thay đổi về lực lượng cách mạng. Trong học thuyết và tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin có khái niệm “bạn đường một đoạn”, trong Hồ Chí Minh không hề có điều ấy.
Cũng đã có một số người vì những lí do nào đó không thể đi theo Hồ Chí Minh, trong đó có người rất đau lòng, nuối tiếc vì hoàn cảnh bắt buộc và rồi sau đó họ quay trở lại với Hồ Chí Minh. Cũng có thể nói, chỉ có ai đó đã bỏ Hồ Chí Minh, chứ Hồ Chí Minh thì không bỏ một ai. Ai đó tự loại trừ chính mình, chứ Hồ Chí Minh không loại trừ ai. Phải lưu ý nhấn mạnh điều này vì, cũng đã có người nhân danh cách mạng đã làm hoen ố sự chân thành, thủy chung như nhất của Hồ Chí Minh với khối đại đoàn kết dân tộc. Bằng những thủ đoạn bè phái, hẹp hòi, họ đã làm tổn thương đến niềm tin của dân đối với tư tưởng Hồ Chí Minh. Họ đã làm vấy bẩn hình ảnh Hồ Chí Minh trong sự tin yêu và thân thiết với tấm lòng rộng mở và chân thành của Hồ Chí Minh, làm cho những ngừơi trung thực giảm lòng tin vào Hồ Chí Minh. Những hẹp hòi, thiển cận, thủ đoạn của họ đã gây nên những tổn thất cho sự nghiệp mà Hồ Chí Minh suốt đời đeo đuổi.
Hồ Chí Minh rất coi trọng cá nhân từng người trong cộng đồng dân tộc. Điều này do nhiều nhân tố tạo thành chứ không phải chỉ là do tiếp thu được từ học thuyết của C.Mác. Nếu có tiếp thu thì là tiếp thu cái cốt lõi có giá trị nhất của học thuyết ấy bằng  truyền thống về nhân văn sâu xa từ triết lí cổ đại thời Hy-La, rồi hiện đại dần lên đến thời cổ điển, phục hưng, khai sáng cho đến thời hiện đại của phương Tây. Có thể nói, truyền thống nhân văn ấy là phần rất nổi bật trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Về mặt coi trọng cá nhân con người, tư tưởng Hồ Chí Minh, trong chừng mực nào đó, là rộng hơn C.Mác. Điều này gắn liền với giá trị tinh thần Việt Nam trong truyền thống văn hóa phương Đông đối với con người. Điểm nổi bật nhất của giá trị đó chính là biểu hiện xuyên suốt trong cuộc đời, trong sự nghiệp và trong tư tưởng bản chất người, bản chất dân tộc của Hồ Chí Minh. Có được điều ấy vì Hồ Chí Minh phải sống và hoạt động trong hoàn cảnh cực kì khó khăn. Những đốm lửa cách mạng được nhen nhóm từ trong điều kiện rất hiểm nghèo, khắc nghiệt của chế độ thuộc địa Pháp ở Việt Nam, phải chắt chiu, trân trọng gìn giữ và phát huy từng cá nhân con người, phải coi trọng từng cá nhân con người mới có thể thổi bùng lên ngọn lửa của Cách mạng tháng Tám và ngọn lửa kháng chiến của các cuộc kháng chiến trường kì trong thế kỉ XX.
Hồ Chí Minh nâng niu trân trọng con người, từng cá nhân con người, nhẫn nại thức tỉnh, giác ngộ, đào tạo từng người, không nề hà công sức, không quản ngại khó khăn, năng nhặt chặt bị, từng li từng tí một góp gió thành bão. Khởi đầu từ cái cụ thể tưởng như nhỏ nhặt không đáng kể để rồi trở thành một công trình vĩ đại mang ý nghĩa thời đại, ý nghĩa lịch sử.
Đi khắp năm châu bốn biển, ôm ấp một hoài bão lớn lao về giải phóng dân tộc mình, góp phần giải phóng loài người, nhưng khi trở về lại mảnh đất của quê hương, đất nước thì lại có thể kiên trì giúp đỡ, dìu dắt, giác ngộ cho một đồng bào của mình ở miền núi, từ việc nhẫn nại dạy chữ, giảng giải về hoạt động cách mạng để người đó có thể trực tiếp tham gia rồi dần dần trở thành người cán bộ cách mạng. Không chỉ là cá biệt một người, mà nhiều trường hợp với nhiều người khác cũng đã được Hồ Chí Minh trực tiếp dìu dắt, giúp đỡ mà trưởng thành.
Biết đánh giá, sử dụng và phát huy từng người cả đức và tài của họ. Trong rất nhiều trường hợp, nhất là trong những trường hợp có ý nghĩa lịch sử, thiên tài của Hồ Chí Minh thể hiện ra ở đây là chọn rất đúng và rất trúng người đáp ứng được đòi hỏi của nhiệm vụ lịch sử  ấy.
Tôn trọng, chăm lo, tạo điều kiện làm nảy nở và tạo dựng nên nhân cách của từng người. Hồ Chí Minh hiểu rõ thế nào là nhân cách, rất dễ dàng cảm thông, trân trọng nhân cách và cá tính của con người. Nếu nhớ lại rằng, do điều kiện đặc biệt của người chiến sĩ cách mạng luôn luôn phải đối phó với hoàn cảnh khắc nghiệt bởi tính chất của công việc và mạng lưới bủa vây, truy lùng của kẻ thù, Hồ Chí Minh không có gia đình, không có được môi trường sống bình thường của một con người trong tình cảm, nghĩa vụ và ứng xử hàng ngày với ông bà, cha mẹ, vợ con, anh chị em… Hiểu như vậy mới thấy hết được cái lớn của tấm lòng cảm thông và cung cách ứng xử hàng ngày của Hồ Chí Minh với mọi người, với từng người.
Hồ Chí Minh thực hiện một cách mẫu mực và chân thật sự bình đẳng của các cá nhân, không hề cường điệu, phân biệt giữa người bình thường với người giữ trọng trách, người ở cương vị cao chót vót. Hồ Chí Minh thường xuyên hỏi ý kiến các đồng chí lãnh đạo của Đảng và Nhà nước song cũng đồng thời sẵn sàng và thành thật hỏi ý kiến những đồng chí cấp dưỡng, lái xe, bảo vệ mình gặp hàng ngày. Người ta kể lại rằng, có lần Hồ Chí Minh không chấp nhận ý kiến của một Ủy viên Bộ Chính trị, nhưng lại lắng nghe và chấp nhận ý kiến của một người cấp dưỡng.
Bằng cuộc sống đầy bản sắc của riêng mình, Hồ Chí Minh biết và hiểu được theo chiều sâu bản sắc của từng người, từng hạng người để tôn trọng và giúp trau giồi bản sắc ấy ở mỗi người. Hồ Chí Minh đều rất tôn trọng cả hai mặt: một mặt là cải tạo hoàn cảnh bên ngoài trở nên “hoàn cảnh có tính người” như C.Mác nói, để qua đó, cải tạo con người và làm nên được bản sắc của con người mới. Một mặt khác, đi vào chiều sâu bên trong của từng con người như tâm linh dân tộc, tâm linh tôn giáo, tính chất trí thức, đặc điểm thế hệ, tâm lí cá nhân, những khát vọng, những nét bản sắc của từng cá nhân ấy.
Phương pháp luận để hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh
Trong quá trình nghiên cứu, tìm tòi để hiểu được sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng tôi nghiệm ra rằng, cần phải xác lập cho mình một cách thức tìm hiểu, điều mà người ta hay nói là phương pháp luận. Xin gợi ra đây những suy ngẫm về vấn đề này.
Tư tưởng Hồ Chí Minh có sự bình thường sau khi đã trải qua sự cao siêu; có sự giản dị sau khi đã trải qua sự phong phú, đa dạng, phức tạp; cụ thể sau khi đã trải qua trừu tượng; mộc mạc sau khi đã rất tinh tế; đạm, rất đạm sau khi đã rất nồng; khiêm nhường sau khi đã từng trải để rất biết người, biết mình; ung dung, thanh thản sau khi tự mình đã trải nghiệm qua biết bao sự chịu đựng cay đắng đủ điều, từ sự chịu đựng vì sự nghiệp của nước, của dân cho đến sự đắng cay của cuộc sống cá nhân, của thân phận con người.
Vì vậy, đơn giản hóa, tầm thường hóa, dung tục hóa, hoặc ngược lại rắc rối đến cầu kì, phức tạp, đi sâu vào tầm chương trích cú, tìm sự phong phú ở cái rậm rạp, xô bồ trong cách nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh thì rồi dù vô tình hay cố ý cũng đều không dẫn đến cách nắm bắt và tiếp nhận cái cốt lõi của tư tưởng Hồ chí Minh. Cũng giống như những nhà tư tưởng lớn của loài người mà Hồ Chí Minh đã học hỏi tiếp thu, tư tưởng Hồ Chí Minh có sự đa dạng, nhiều chiều, năng động, luôn luôn phát triển chứ không phải là “nhất thành bất biến”. Chỉ có một điều cần thấy rõ, đó là, từ lúc manh nha, đến lúc hình thành, và khi vận dụng vào cuộc sống, rồi được sửa chữa, bổ sung, đều đã thể hiện sự nhất quán, rất nổi bật “tính chất trước sau như một” của tư tưởng Hồ Chí Minh. Cả hai biểu hiện ấy, “đa dạng, năng động, nhiều chiều, không “nhất thành bất biến” thống nhất với sự nhất quán, “trước sau như một”, xin được gọi là “tính chất một” cực kì hàm súc của tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa rất lớn.
Chú ý đến biểu hiện ấy trong phương pháp luận nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh cũng là chú ý đến sự gặp gỡ thú vị của phong cách Hồ Chí Minh với xu thế hiện nay của khoa học và của đặc điểm trí tuệ của thời đại là: tổng thể hóa trong đa dạng, chứ không chỉ là chuyên biệt hóa ngày càng sâu, càng tinh vi khi đi sâu vào phân tích cụ thể mà thiếu sự tổng hợp.
Đây là sự tổng thể hóa đầy mâu thuẫn trong đời sống và hoạt động của con người, từ cá nhân đến cộng đồng, từ một góc tâm linh, một nét tiềm thức hoặc là vô thức sâu kín, bí ẩn nhất của mỗi con người, cho đến động thái của mỗi dân tộc và của cả loài người. Có sự tổng thể hóa nhiều sắc thái của kiến thức và nghiên cứu khoa học của con người, nó là kết quả đan xen vào nhau, trở thành nhau của nhiều ngành, nhiều phương pháp khoa học, trong khi mà sự chuyên biệt hóa, bên cạnh mặt mạnh của nó, ngày càng bộc lộ những nhược điểm khá rõ. Đó là sự liên ngành, mà thực chất mới chỉ là sự phối hợp, kết hợp giữa nội dung và phương pháp của nhiều ngành để bổ sung và làm sáng tỏ cho nhau nhưng vẫn chưa bộc lộ hết tiềm năng của nó, chưa đáp ứng được những yêu cầu mới của thời đại.
Nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh phải là sự nghiên cứu rất hiện đại, chứ chỉ dừng lại phương pháp liên ngành như đã từng có trong nửa cuối thế kỉ XX thì chưa đủ và đã bị vượt qua. Phương pháp phân tích cụ thể quá sẽ thành ra chi li, dẫn đến phân tán. Tuy rằng đi sâu vào từng lĩnh vực của tư tưởng Hồ Chí Minh thì cần thiết, song chưa đủ. Cách nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh có triển vọng nhất đó là một, nhất quán trong đa dạng, tổng thể hóa trong phong phú. Với phương pháp luận đó thì có thể sẽ tìm ra và nhấn mạnh không nhiều, nhưng lại có sức khái quát lớn.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là thiết thực và hành động, cho nên phương pháp nghiên cứu, tìm hiểu, tiếp nhận và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh cũng phải như vậy. Sự nghiên cứu uyên bác là rất cần, càng uyên bác, thâm thúy thì càng hay, nhưng cần luôn luôn ghi nhớ cái chất của Hồ Chí Minh, cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là thiết thực và hành động. Uyên bác và thâm thúy nhất của Hồ Chí Minh là thiết thực và có hiệu quả trong hành động.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là chân thực. Bởi vậy, vấn đề là phải làm sao phát hiện được, tiếp nhận được tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự chân thực đó. Trong những thiên lệch cần phải tránh thì trước hết phải tránh sự “tụng ca”, “vĩ nhân ca”. Không nên và không thể cộng thêm cái gì vào tư tưởng Hồ Chí Minh, vì tư tưởng ấy cũng chính là nhân cách Hồ Chí Minh. Mọi ý định, cho dù là thiện chí muốn thêm vào thì chỉ là trừ đi, và nếu Hồ Chí Minh biết thì sẽ cười rằng “đừng vẽ rắn thêm chân”! Sự cường điệu về chất, về mức là không trung thực, hoàn toàn không cần thiết, hơn nữa, là có hại. Vấn đề là ở chỗ nhận cho ra đâu là nét đích thực của tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện qua việc làm, qua cách sống, qua lời nói, qua bài viết, qua cơ đồ, qua sự nghiệp. Đừng cố tìm ở Hồ Chí Minh cái gì cũng đều có, cũng đều “vĩ đại”, vì như vậy chính là xuyên tạc, hạ thấp hoặc là bôi nhọ tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh đòi hỏi phải thấy cho rõ, cho đúng, cho đủ những thiếu sót, sai lầm chủ quan đã để lại dấu ấn trong tư tưởng, trong việc làm, trong sự nghiệp của Hồ Chí Minh. Những cái đó không thể không có, vì Hồ Chí Minh là một con người chứ không phải là một vị thánh. Hồ Chí Minh không thể không có sai lầm, cần phải khách quan và trung thực chỉ ra. Chỉ ra được những sai lầm và tác hại của nó một cách đúng đắn là thể hiện sự kính trọng và tin yêu. Cùng với cái đó, cũng phải phân tích rõ những hạn chế lịch sử mà Hồ Chí Minh không thể vượt qua được, những hạn chế đó cũng để lại những di lụy không nhỏ trong sự nghiệp của Hồ Chí Minh.
Kế thừa, vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là sự nâng niu, bảo quản như bảo quản một di vật quí trong bảo tàng. Kế thừa là vận dụng và phát triển. Vậy thế nào là kế thừa và vận dụng đúng đắn tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện hiện nay, điều kiện của dân tộc, của thế giới, của thời đại? Đây là một khó khăn phức tạp và có thể tác động ngược lại đến việc nhận thức tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thông thường, việc kế thừa và vận dụng một tư tưởng đòi hỏi một sự lựa chọn. Nếu không có sự lựa chọn thì cũng không thể có sự kế thừa, vận dụng và phát huy. Và nói lựa chọn tức là đòi hỏi phải bỏ qua một số điểm nào đó, cố ý làm nổi bật lên hay làm nhẹ bớt đi một số điều nào đó, là nắm bắt những thông điệp nào đó và lướt qua những thông điệp nào đó. Đó là cách làm đúng đắn mang tính khoa học cao, có thể gọi đó là điều có tính qui luật được vận dụng phổ biến, để không chỉ nhằm học tập, tiếp thu những thành tựu trí tuệ của văn hóa và văn minh loài người đã đạt được, mà cũng chính là cách những người được xem là những vĩ nhân, những nhà tư tưởng lớn của loài người đã thực hiện như thế nào để trở thành vĩ nhân.
Có một lập luận cho rằng: hãy nghe thấy trong Hồ Chí Minh điều mà dân tộc ta cần nghe vào chính lúc này. Hãy tìm thấy, làm nổi bật lên, học theo và thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh điều mà dân tộc ta cần nhất vào lúc này với niềm tin rằng, những cái đó đều có trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Lập luận đó có cơ sở đúng bởi vì, thường là vĩ nhân nào mà cốt lõi tư tưởng là vì con người, dân tộc và loài người thì càng đa dạng và phong phú, càng chứa đựng nhiều thông điệp cần thiết cho mọi thời đại, càng dễ vận dụng theo cách lựa chọn trên. Vấn đề là, với sự tiếp cận này, sự chân thực có được với niềm tin rằng đó là khách quan và khoa học đạt được đến đâu và đâu là điểm dừng cần phải có?
Những người phản bác lại lập luận đó thì cho rằng, với cách ấy rất dễ chủ quan, tùy tiện gán cho Hồ Chí Minh những điều mà mình muốn, mình đang trông chờ chứ không phải là trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã có những điều đó. Lúc này đang cần có tri thức và kinh nghiệm về kinh tế thị trường thì cố đào cho ra trong tư tưởng Hồ Chí Minh những điều ấy. Khi đất nước đang bị hút vào quĩ đạo của toàn cầu hóa thì đã cố moi tìm chỗ này, chỗ kia rằng Hồ Chí Minh đã nói về toàn cầu hóa và hội nhập hay chí ít cũng manh nha những tư tưởng ấy. Nếu làm như vậy thì đúng là giả tạo và không biết đến điểm dừng.
Nhưng đã là phương pháp luận khoa học thì phải có sự lựa chọn, có mức độ, có điểm dừng, có thái độ trung thực khoa học đầy trách nhiệm để có cách xử lí thỏa đáng. Đây là điều không dễ dàng chút nào, song là một phương pháp luận, mà theo chúng tôi, cần phải chú ý vận dụng. Một phương pháp luận nghiên cứu như thế mới có thể đưa tới những công trình nghiên cứu xứng đáng với Hồ Chí Minh. Càng kính trọng và tin yêu Hồ Chí Minh, thấy rõ tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa lớn lao như thế nào đối với vận mệnh của đất nước, sự nghiệp của nhân dân và tương lai của dân tộc, càng phải tuân thủ phương pháp luận đó.
Đây là những suy ngẫm nghiêm túc song không thể tránh khỏi những “thô thiển”, xin mạnh dạn nêu lên để trao đổi. Theo chúng tôi làm như vậy cũng là cách thiết thực kỉ niệm ngày sinh của Người.
Tương Lai

HỒ CHÍ MINH - DANH NHÂN VĂN HÓA CỦA THẾ KỶ XX

GS Song Thành - Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng,
Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh

1. Hồ Chí Minh, một trong những nhân vật có ảnh hưởng mạnh mẽ trong thế kỷ XX
Đó không phải là lời khẳng định của những người cộng sản Việt Nam mà là của một người Mỹ: Stanley Karnow, nguyên Trưởng đại diện của Tuần báo Time ở Hà Nội.
Chuẩn bị cho thời điểm kết thúc thế kỷ XX, Tuần báo Time đã phối hợp với Hãng truyền hình CBS, đưa ra 7 triệu phiếu bầu, gửi đi khắp các nước, để bầu chọn lấy 100 nhân vật nổi tiếng có ảnh hưởng nhất, thuộc các lĩnh vực khác nhau trong thế kỷ XX. Cuối tháng 12/1999, tuần báo Time đã công bố danh sách 100 nhân vật nổi tiếng đã được tuyển chọn, trong đó Hồ Chí Minh thuộc danh sách 20 nhà lãnh đạo có uy tín lớn nhất trên thế giới trong thế kỷ XX, bên cạnh V.I..Lênin, M.Gandhi, W.Churchill, A.Khomeney, N.Mandela,...
Thực ra, đối với Hồ Chí Minh, kết quả bầu chọn này không có gì bất ngờ, vì trước đó, năm 1983, ở phương Tây đã từng có một cuộc bình chọn, theo một phương thức khác, nhưng có phần quan trọng hơn, vì đó là sự bình chọn của 300 nhà khoa học trên thế giới, trong công trình Văn hóa thế kỷ XX (XXth Century culture) do Alan Bullock và R.B.Woodings chủ biên, và do Harper and Row xuất bản năm 1983. Đây là một công trình thuộc loại từ điển tiểu sử (Biographical companion). Tên tuổi và sự nghiệp của Hồ Chí Minh được đưa vào cuốn sách tra cứu này ở trang 332-333.
Đây không phải là một cuộc lựa chọn cảm tính. Trước khi bắt tay vào cuộc, 300 nhà khoa học của nhiều nước trên thế giới đã có sự tranh cãi về tiêu chí cho việc bình chọn: Ai sẽ được coi là danh nhân văn hóa? Đặc điểm của thế kỷ XX là gì? Và người ta đã đi đến thống nhất:
- Thế kỷ XX là thế kỷ của những đảo lộn khoa học - công nghệ (thí dụ thuyết tương đối của A.Einstein). Ai làm đảo lộn thế giới trong thế kỷ XX, người ấy là danh nhân văn hóa.
- Thế kỷ XX là một thế kỷ tàn bạo, thế kỷ của những cuộc chiến tranh thế giới, đè nặng lên số phận con người. Ai đấu tranh cho quyền sống của con người, bênh vực con người, giải phóng con người, tức là tiêu biểu cho chủ nghĩa nhân văn... người đó sẽ sống mãi với lịch sử loài người, sẽ là danh nhân văn hóa của thế kỷ XX.
- Thế kỷ XX là thế kỷ giải thực dân hóa (décolonisation). Ai góp phần đảo lộn thế giới thuộc địa, giải phóng các dân tộc bị áp bức, vẽ lại bản đồ thế giới,... người đó là danh nhân văn hóa thế kỷ XX.
Hồ Chí Minh là người sáng lập phong trào giải phóng dân tộc của Việt Nam, đi tiên phong trong phong trào giải phóng các dân tộc thuộc địa trên thế giới. Chủ nghĩa thực dân là phản nhân văn (anti-humanisme), Hồ Chí Minh là người chống chủ nghĩa thực dân, đảo lộn thế giới thuộc địa, vì vậy Người rất xứng đáng là danh nhân văn hóa của thế kỷ XX.
Khi xem xét Hồ Chí Minh, cũng có người phân vân: ông là người cộng sản, đã lựa chọn chủ nghĩa cộng sản. Đây cũng là một mặc cảm của nhiều người phương Tây, một cái cớ mà nhiều người Việt bất đồng chính kiến thường khai thác để vu cáo, xuyên tạc, phủ nhận mọi công lao, cống hiến của Hồ Chí Minh đối với dân tộc và nhân loại. Nhà bác học, huân tước B.Russel người Anh cũng không ưa chủ nghĩa cộng sản, nhưng lại rất khâm phục và kính trọng Hồ Chí Minh, một lãnh tụ cộng sản, ở khía cạnh nhân văn. Ông đã đứng ra lập tòa án quốc tế mang tên ông để lên án tội ác chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ ở Việt Nam.
Trong cuộc trao đổi đó, người ta đã kết luận: “Hồ Chí Minh là nhà mácxít hay nhà nho, điều đó không quan trọng, Hồ Chí Minh là người cộng sản hay người dân tộc chủ nghĩa, điều đó không quan trọng, chỉ cần biết Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc - người yêu nước, thế là đủ xếp ông vào hàng danh nhân văn hóa thế kỷ XX!
Ấy là bởi vì ông là người khởi xướng và giương cao ngọn cờ giải phóng các dân tộc thuộc địa và trở thành người dẫn đạo chủ chốt được mặc nhiên thừa nhận và kính trọng của châu Á (da vàng) và của thế giới thứ ba (da màu nói chung)” (1) .
Với kết luận đó của tập thể các nhà khoa học phương Tây, có lẽ chúng ta không cần thiết phải bổ sung gì thêm.
2. Về việc UNESCO thông qua nghị quyết kỷ niệm lần thứ 100 ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Từ năm 1974, tại khóa họp lần thứ 18 của Đại hội đồng UNESCO, vấn đề kỷ niệm “các danh nhân văn hóa thế giới đã để lại những dấu ấn quan trọng trong quá trình phát triển của nhân loại” bắt đầu được đặt ra. Tính đến khóa họp lần thứ 24 (1987) đã có 21 danh nhân văn hóa của thế giới được kỷ niệm.
Tại phiên họp khóa 24 (diễn ra từ 20/10 đến 20/11/1987), Đại hội đồng UNESCO đã tiến hành xem xét việc kỷ niệm các danh nhân có năm sinh chẵn (100, 200, 500,...) vào các năm 1988, 1989 và 1990. Đã có 6 người được đề cử, trong đó có J.Nêru (Ấn Độ), A.Makarenkô (Liên Xô), Hồ Chí Minh (Việt Nam) và mấy người nữa thuộc Thái Lan, CHLB Đức, Thổ Nhĩ Kỳ.
Việc xem xét các danh nhân trong khóa họp này diễn ra trong bối cảnh khác với các khóa họp trước: một số nước vừa rút chân ra khỏi UNESCO vì lý do chính trị (như Mỹ), có nước đề nghị chỉ nên xét đến năm 1988 thôi, còn các năm sau để lại vì cần bàn thêm tiêu chuẩn thế nào là vĩ nhân? Có nước lại nêu ý kiến: từ 1990, UNESCO nên hạn chế việc kỷ niệm danh nhân thế giới, v.v..
Việc xét J.Nêru tương đối thuận, chỉ 45 phút là thông qua, và Nêru đã được Hội đồng tôn vinh với danh hiệu Nhà quán quân của phong trào giải phóng dân tộc.
Việc xét Hồ Chí Minh, ta dự kiến sẽ có khó khăn hơn, vì lúc đó, ngoài vấn đề Campuchia, nước ta còn có vấn đề người Việt bỏ nước ra đi. Phe xã hội chủ nghĩa lại đang trong quá trình khủng hoảng. UNESCO có 159 quốc gia thành viên, chỉ có 8 nước xã hội chủ nghĩa. Có một người Việt di tản đã đưa đến một bản kiến nghị với 79 chữ ký của những người tị nạn, gửi Đại hội để phản đối việc xem xét này, đơn đề nghị: có xét thì chỉ nên xét Nguyễn Ái Quốc chứ không xét Hồ Chí Minh!
Tuy nhiên, cuộc thảo luận đã diễn ra trong không khí đầy tình cảm chân thành và ngưỡng vọng của bạn bè quốc tế năm châu đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Chủ tọa phiên họp là đại biểu Thái Lan. Bà đã có bài phát biểu rất sâu sắc về Hồ Chí Minh, coi tư tưởng của Người là tài sản chung của nhân loại, có giá trị vĩnh hằng.
Đại biểu Cộng hòa Dân chủ Đức gọi chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh là chủ nghĩa nhân văn của mọi thời đại.
Đại biểu Xri Lanca đã gọi Hồ Chí Minh là nhà tiên tri, ví Người như là ngọn hải đăng của các dân tộc bị áp bức.
Trưởng đoàn đại biểu Ấn Độ, nguyên là Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, đã phát biểu: “Hồ Chí Minh là một danh xưng cao quý, không chỉ nằm ngay trong mỗi chúng ta, mà gắn với tiến bộ thời đại. Vì vậy, việc kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Người vừa là sự kiện quan trọng, vừa là niềm vinh dự lớn lao đối với mọi người”.
Gần 30 nước đã ký tên đồng tác giả vào dự thảo nghị quyết về Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi lên Đại hội đồng, đều cùng khẳng định những lý tưởng của UNESCO và tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, nhân văn là nhất trí; coi việc khẳng định sự ủng hộ đối với nghị quyết kỷ niệm 100 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh là một niềm vinh dự.
Tại cuộc họp ở Tiểu ban các vấn đề văn hóa, sau đó là tại phiên họp của toàn thể Đại hội đồng, dự thảo nghị quyết đã được biểu quyết thông qua với sự nhất trí tuyệt đối, thể hiện nguyên tắc cao nhất của diễn đàn quốc tế quan trọng này (2).
Nghị quyết được Đại hội đồng UNESCO thông qua đã tôn vinh Hồ Chí Minh với một danh hiệu rất cao: vừa là ANH HÙNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC, vừa là NHÀ VĂN HÓA KIỆT XUẤT (Héro de la libération nationale et éminent homme de culture du Vietnam). Bản nghị quyết có đoạn viết: “Xét thấy Chủ tịch Hồ Chí Minh là một biểu tượng kiệt xuất về quyết tâm của cả một dân tộc, đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội;
Xét thấy sự đóng góp quan trọng về nhiều mặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các lĩnh vực văn hóa, giáo dục và nghệ thuật, là kết tinh của truyền thống văn hóa hàng ngàn năm của nhân dân Việt Nam và những tư tưởng của Người là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc của mình và tiêu biểu cho việc thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau;
Khuyến nghị các quốc gia thành viên kết hợp kỷ niệm lần thứ 100 ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng cách tổ chức những hoạt động đa dạng để tưởng niệm Người, để làm cho mọi người hiểu được tầm vóc to lớn và những tư tưởng và sự nghiệp của Người vì công cuộc giải phóng dân tộc”.
Nghị quyết của Đại hội đồng là nghị quyết ở cấp cao nhất của UNESCO, chỉ có Đại hội đồng mới có quyền thay đổi, không một cá nhân hay một nhóm người nào có thể tự ý bác bỏ, phủ nhận. Tất nhiên, UNESCO chỉ khuyến nghị, sau này, việc thực hiện nghị quyết như thế nào còn tùy tình hình của mỗi nước.
Sự thật về việc Đại hội đồng UNESCO vinh danh Hồ Chí Minh là anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam là như vậy. Trong tập biên bản của phiên họp Đại hội đồng, ở chương 18, mục 18.65 (trang 134), đã in nguyên văn Nghị quyết về kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Hồ Chí Minh (bằng tiếng Anh và tiếng Pháp). Sự thật đó làm cho những người muốn phủ nhận “không có việc UNESCO vinh danh Hồ Chí Minh” thất bại, họ chuyển sang chống chế bằng lập luận: Sở dĩ nghị quyết đã được nhất trí thông qua vì dư âm của chiến thắng 30/4/1975 vẫn còn mạnh mẽ và ông M’Bow, Tổng thư ký UNESCO thời gian đó là người Sénégal vốn thiên tả, đã ra sức tán trợ đề nghị này vì muốn tranh thủ lá phiếu của khối cộng sản và khối các nước Á - Phi để được tái cử nhiệm kỳ thứ ba, v.v. và v.v..
Động cơ chính trị xấu xa đã làm cho họ trở nên mù quáng, cố tình phủ nhận sự nghiệp, văn hóa và những giá trị văn hóa lớn lao mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cống hiến cho dân tộc và nhân loại.
3. Giá trị nhân văn cao quý trong sự nghiệp văn hóa Hồ Chí Minh
3.1. Chủ tịch Hồ Chí Minh được thế giới thừa nhận là Nhà văn hóa kiệt xuất (éminent homme de culture) bằng cả một sự nghiệp văn hóa đồ sộ mà Người đã cống hiến cho dân tộc và nhân loại
a) Trước hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh được thừa nhận là Nhà văn hóa kiệt xuất vì Người đã khởi xướng phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc, giải phóng các dân tộc thuộc địa, giành lại độc lập, tự do. Đó không phải chỉ là một sự nghiệp chính trị phi thường mà còn là một sự nghiệp văn hóa cao cả.
“Đổi người nô lệ thành người tự do”, phát động lòng yêu nước và chủ nghĩa anh hùng của một dân tộc phần đông còn mù chữ và thất học vùng dậy đấu tranh đòi giải phóng, đó là một sự nghiệp gian nan và phi thường, đồng thời cũng là một sự nghiệp văn hóa vĩ đại. Bởi vì giải phóng con người khỏi thân phận nô lệ, khỏi cái đói, cái rét, cái dốt là một sự nghiệp văn hóa có ý nghĩa cao cả nhất, đầy đủ nhất, một ước mơ ngàn đời của nhân loại.
b) Chủ tịch Hồ Chí Minh là Nhà văn hóa kiệt xuất vì Người đã sớm thấy vai trò và sức mạnh của văn hóa, đã sớm đưa văn hóa vào chiến lược phát triển của đất nước.
Giành được độc lập rồi, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nâng dân tộc mình lên một tầm văn hóa mới. Người đề nghị mở ngay chiến dịch chống giặc dốt. Người coi dốt nát cũng là một thứ giặc, xem những phong tục, tập quán lạc hậu cũng là một loại kẻ thù. Người nói: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”... “Chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục lại nhân dân chúng ta... phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập” (3).
Người phát động phong trào Đời sống mới, xây dựng và phát triển những thuần phong, mỹ tục mới trong nhân dân; mỗi ngành, mỗi giới đều có phong trào riêng của mình. Công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh là Người đã đưa văn hóa đi sâu vào quần chúng, tác động như một sức mạnh vật chất, biến đổi phong hóa, cải tạo con người.
c) Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đặt cơ sở thế giới quan và phương pháp luận cho việc xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam. Người là kiến trúc sư vĩ đại của công cuộc cải cách và xây dựng nền văn hóa Việt Nam, tạo ra một cách nhìn mới, một thế giới quan mới, tạo lập một ý thức chính trị, ý thức đạo đức, ý thức pháp luật, ý thức nghệ thuật mới,... chưa từng có trong lịch sử văn hóa Việt Nam.
Trên cơ sở đó, Người đã đánh thức các tiềm năng tinh thần truyền thống Việt Nam, định hướng cho sự ra đời một nền đạo đức mới, một xã hội nhân cách mới. Với Hồ Chí Minh, xã hội nhân cách - đạo đức ấy được tạo dựng trên cơ sở chủ nghĩa yêu nước chân chính, kết hợp với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, theo nhân cách luận của người chiến sĩ cách mạng kiểu mới: trung với nước, hiếu với dân, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư,... Sau khi đã lãnh đạo toàn dân giành lại quyền độc lập, tự do cho Tổ quốc, Người đã đưa văn hóa Việt Nam lên vị trí  xứng đáng trong nền văn hóa thế giới.
d) Chủ tịch Hồ Chí Minh là Nhà văn hóa kiệt xuất vì bản thân Người là một nhà hoạt động và sáng tạo văn hóa lớn.
- Hồ Chí Minh là biểu tượng của sự kết hợp hài hòa tinh hoa văn hóa dân tộc và văn hóa nhân loại, Đông và Tây. Từ nhỏ, Người đã được hấp thụ một nền văn hóa dân tộc và văn hóa phương Đông sâu sắc. Trên đường học tập và nghiên cứu, Người đã từng bước hấp thụ văn hóa nhân đạo và dân chủ của phương Tây, đặc biệt là tinh thần tự do, bình đẳng, bác ái của truyền thống văn hóa cách mạng Pháp. Chính trí tuệ siêu việt, vốn sống thực tế phong phú và vốn văn hóa rộng lớn đã dẫn Người đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, kết tinh thành tựu văn hóa của loài người. Người đã làm chủ được nhiều ngôn ngữ khác nhau, sử dụng một cách thành thạo trong viết văn, viết báo, làm thơ, viết kịch..., khi xuất hiện như một nhà báo phương Tây sành sỏi, khi lại trầm tĩnh, hàm súc như một thi sĩ cổ điển phương Đông. Trải qua mấy chục năm học tập và rèn luyện, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng bước vươn lên tầm cao của trí tuệ thời đại, để từ đó mà vận dụng và phát triển, sáng tạo và đổi mới, đóng góp vào kho tàng văn hóa thế giới những giá trị đặc sắc, in đậm dấu ấn Việt Nam - Hồ Chí Minh.
- Bản thân Hồ Chí Minh là nhà thơ, nhà văn, nhà báo cách mạng vĩ đại. Thơ Hồ Chí Minh có bài viết bằng tiếng Việt, có bài viết bằng chữ Hán, song không bài thơ nào vắng bóng con người. Khát vọng tự do, công lý, cơm áo, hòa bình... sự cổ vũ cho cái đẹp và mối quan hệ nhân văn giữa người với người, đó là những nội dung chủ yếu trong thơ Hồ Chí Minh. Vì vậy, những bài thơ ngẫu hứng, sản phẩm của một thời, trong đó không ít bài đã ra đời trong cảnh tù đày, biệt xứ, đã trở thành “thơ của muôn đời”, đã làm “xáo trộn cả tâm hồn nhân loại” bởi những giá trị nhân văn cao quý, tỏa sáng từ một tâm hồn lớn, một nhân cách lớn.
một nhà thơ lớn của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đồng thời là nhà văn lớn, là người mở đầu và đặt nền móng cho nền văn xuôi cách mạng Việt Nam. Người đã tìm tòi và viết nhiều thể loại: tiểu thuyết du ký, truyện viễn tưởng, truyện ngắn, ký, kịch, tiểu phẩm, văn chính luận. Ở lĩnh vực nào Người cũng đạt được những thành tựu đặc sắc, đem lại những yếu tố rất mới, rất hiện đại và giữ nguyên giá trị trong sự đổi mới văn học hôm nay.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là một bậc thầy của báo chí cách mạng Việt Nam. Người rất khiêm tốn, không nhận mình là nhà thơ, nhà văn, chỉ nhận mình là “người có nhiều duyên nợ với báo chí”. Chính Người đã sáng lập và là linh hồn của nhiều tờ báo cách mạng đầu tiên ở nước ta. Những bài báo ngắn gọn của Người đã góp phần thức tỉnh các dân tộc bị áp bức, truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin, lên án chủ nghĩa thực dân, chỉ đạo phong trào cách mạng ở thuộc địa. Tất cả những gì Người viết ra đều là sự phản ánh trung thực, hồn nhiên vẻ đẹp cao quý trong đạo đức, trí tuệ và tâm hồn của một nhân cách lỗi lạc, vì vậy, tất cả đều hiện ra chân thực, giản dị, tự nhiên, vốn là những chuẩn mực tiêu biểu cho cái đẹp - cái hoàn thiện của con người.
e) Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà văn hóa kiệt xuất bởi Người còn là mẫu mực của tinh thần khoan dung văn hóa. Người nhắc nhở phải giữ gìn, phát huy truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc, nhưng không tự bó mình trong chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, thiển cận, mà kêu gọi phải ra sức nghiên cứu, học tập tinh hoa văn hóa của thế giới, xưa và nay. Người trân trọng mọi giá trị văn hóa nhân loại, tôn trọng và chấp nhận những giá trị khác biệt với sự lựa chọn của mình. Người từng thừa nhận mình là học trò của Các Mác, Jésus, Khổng Tử, Tôn Dật Tiên, vì “các vị ấy đều có điểm chung giống nhau là mưu cầu hạnh phúc cho loài người... Nếu họ còn sống và ở gần nhau, tôi tin họ sẽ chung sống thoải mái với nhau như những người bạn tốt”. Đối với các tôn giáo, Người thành thật tôn trọng đức tin của người có đạo, khẳng định lý tưởng cao đẹp và những giá trị nhân bản của các vị sáng lập ra các tôn giáo đó, không hề bài bác hay phủ định, mà biết khéo hướng lý tưởng của các tôn giáo vào phục vụ sự nghiệp giải phóng dân tộc và mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân.
g) Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà văn hóa kiệt xuất vì Người còn là hiện thân rực rỡ của văn hóa hòa bình, của đường lối ngoại giao hòa bình, luôn luôn chủ trương giải quyết mọi tranh chấp, xung đột bằng thương lượng, đối thoại với thái độ hiểu biết và nhân nhượng lẫn nhau.
Tóm lại, có thể khẳng định Nhà văn hóa kiệt xuất Hồ Chí Minh đã sáng tạo ra một thời đại mới, một nền văn hóa mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam, cũng là những giá trị đóng góp vào sự phát triển văn hóa của thế giới. Nhiều chủ trương văn hóa được Người đề ra rất sớm - từ giữa những năm 40 và 50 của thế kỷ XX, như: xóa mù chữ, trồng cây phủ xanh đồi trọc, cải tạo môi trường sinh thái, yêu mến và kính trọng người già, v.v. đến đầu những năm 90 đã được Liên Hợp Quốc đề lên thành những cuộc vận động lớn trên toàn thế giới. Đúng như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một kho tàng đầy của báu, là di sản chứa đựng bao giá trị, giá trị đó, nói cho cùng, là giá trị văn hóa mà chúng ta khai thác chưa được bao nhiêu” (4) .
3.2. Sự nghiệp văn hóa Hồ Chí Minh vô cùng phong phú: có văn hóa chính trị, văn hóa đạo đức, văn hóa giao tiếp - ứng xử, văn hóa khoan dung, văn hóa - văn nghệ,... Văn hóa Hồ Chí Minh là sự kết hợp hài hòa, nhuần nhuyễn những giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc với những yếu tố tích cực trong văn hóa phương Đông, văn hóa các tôn giáo, văn hóa dân chủ - cách mạng phương Tây, văn hóa mácxít,... để trở thành văn hóa tiên tiến, mang những giá trị nhân văn sâu sắc, vốn là nội dung cốt lõi của văn hóa nhân loại.
Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh là văn hóa yêu nước, thương dân, hướng tất cả vào phục vụ sự nghiệp đấu tranh cho độc lập của Tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân; là văn hóa trọng dân “lấy dân làm gốc”. Với tâm niệm “có dân là có tất cả”, nên Người thường xuyên giáo dục cán bộ, đảng viên phải lo “sao cho được lòng dân”, phải phấn đấu trở thành người công bộc trung thành và tận tụy của nhân dân. Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh là sự chung đúc những giá trị của các học thuyết trị nước tiến bộ mà các bậc anh hùng dân tộc, các minh quân, lương tướng đã theo đuổi trong lịch sử dân tộc và nhân loại. Chính vì thế nó chứa đựng những giá trị nhân văn cao quý.
Văn hóa đạo đức Hồ Chí Minh là văn hóa hành thiện, cổ vũ làm điều thiện, sống với nhau có tình, có nghĩa, muốn thế phải thực hiện cho tốt 8 chữ vàng: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, biết kết hợp hài hòa lợi ích chung với lợi ích riêng, sống trung thực, giản dị, khiêm tốn, nói đi đôi với làm, ít lòng ham muốn về vật chất,... nhờ đó mà có thể “sống oanh liệt, chết vẻ vang”.
Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh chính là hiện thân sinh động của văn hóa đạo đức Hồ Chí Minh. Như một người từng đối đầu với Hồ Chí Minh - tướng Valluy thừa nhận: “Hoàn toàn xả thân vì nhiệm vụ, không một chút lợi riêng tư, dưới con mắt những người chung quanh và những người đối thoại, Hồ Chí Minh là một người vô cùng đức độ” (5). Thắng lợi của cách mạng, vinh quang của quyền lực, hay danh vọng của cá nhân không thể nào làm lu mờ tấm gương đạo đức của Người. Vì vậy, trong thế giới của những người cầm quyền, hình ảnh Hồ Chí Minh lại càng nổi bật hơn bao giờ hết.
Văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh, nói rộng ra là phương châm xử thế, Hồ Chí Minh luôn luôn là người trung hậu, thủy chung với nhân dân, với đồng chí, đồng bào và với bạn bè quốc tế; Người thấy rừng và thấy cả từng cây, không bỏ sót một ai cả, không quên bất cứ một nghĩa cử nào, dù nhỏ, đã từng ủng hộ, giúp đỡ cách mạng Việt Nam; nhưng Hồ Chí Minh lại không bao giờ nhắc đến người cũ, chuyện cũ đã từng có lúc đối xử không đúng với Người; nếu có ai nhắc đến, Người cũng gạt đi. Văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh cực kỳ tinh tế, uyển chuyển, có lý có tình, khiêm tốn, nhã nhặn, lịch thiệp. Phương châm xử thế mà Hồ Chí Minh thường nhắc nhở cán bộ và nhân dân ta là:
“Bình tĩnh, sáng suốt khi nguy nan,
Nhẫn nại, ôn hòa khi tức giận.
Linh hoạt, khéo léo tùy trường hợp,
Nguyên tắc quá thường hay lỡ việc,
Cương quyết khi hành động,
Gác lợi riêng mưu nghiệp lớn”... (6)
Hồ Chí Minh là hiện thân sinh động của những phương châm này. Ứng xử văn hóa của Hồ Chí Minh đã tranh thủ được trái tim, khối óc của bạn bè năm châu, làm cho kẻ thù cũng phải khâm phục.
Văn hóa khoan dung Hồ Chí Minh là kết tinh của truyền thống nhân ái, độ lượng Việt Nam và cũng là nét đặc trưng của văn hóa hòa bình trong thời đại ngày nay. Người nói: “Dân tộc ta là một dân tộc giàu lòng đồng tìnhbác ái. Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển những giá trị khoan dung của dân tộc và nhân loại, nâng lên thành một chất lượng mới, ở một tầm cao mới.
Là người cộng sản, Hồ Chí Minh có thái độ tôn trọng, không bao giờ tỏ ra kỳ thị, bài bác mà luôn luôn có ý thức khai thác, vận dụng những yếu tố tích cực của các học thuyết chính trị và tôn giáo như Nho, Phật, Lão, Thiên chúa giáo,... vào sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước.
Văn hóa khoan dung Hồ Chí Minh được xây dựng trên cơ sở chữ “nhân”, nhưng là một chữ nhân sáng suốt, có nguyên tắc, lấy công lý, chính nghĩa là nền tảng, chủ trương giải quyết những vấn đề dân tộc và quốc tế trên cơ sở “có lý, có tình”.
Văn hóa khoan dung Hồ Chí Minh là thái độ trân trọng đối với mọi giá trị văn hóa nhân loại, là không ngừng rộng mở, thâu hóa những yếu tố tích cực, tiến bộnhân văn của loài người để làm giàu cho văn hóa Việt Nam. Văn hóa khoan dung Hồ Chí Minh là chấp nhận giao lưu và đối thoại bình đẳng về giá trị để đạt tới cái chung, cái nhân loại, để cùng tồn tại và phát triển. Trong khi chống thực dân Pháp xâm lược, Người vẫn đề cao văn hóa Pháp. Trong khi chống đế quốc Mỹ, Người vẫn ca ngợi truyền thống văn hóa dân chủ và cách mạng Mỹ.
Nói về văn hóa khoan dung Hồ Chí Minh, nhà báo Mỹ David Halberstam đã thừa nhận: “Cụ Hồ đã làm được một điều đáng chú ý: biết dùng tới văn hóa và tâm hồn kẻ thù để chiến thắng” (7).
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho dân tộc Việt Nam một di sản văn hóa cao đẹp và phong phú, trong đó không thể không nhắc tới những tư tưởng chỉ đạo của Người về xây dựng một nền văn hóa mới: dân tộc, khoa họcnhân văn, một nền văn hóa “lấy hạnh phúc của đồng bào, của dân tộc làm cơ sở”, “làm cho ai cũng có lý tưởng độc lập, tự chủ”, “văn hóa phải sửa đổi được tham nhũng, lười biếng, phù hoa xa xỉ”, “văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi” (8),.. Những phương châm đó vẫn giữ nguyên giá trị chỉ đạo đối với việc xây dựng nền văn hóa dân tộc, cho hôm nay và cả mai sau.
Khẳng định những giá trị nhân văn cao quý trong sự nghiệp văn hóa và con người Hồ Chí Minh, nhà báo Jean Lacouture - người được coi là một nhà viết tiểu sử Hồ Chí Minh hay nhất ở phương Tây, đã viết: “Đó là một tấm trí minh mẫn, ít ham thích bạo lực, một thái độ rất độc đáo về quan hệ giữa người với người, một trình độ văn hóa tự học khá rộng nhưng rất thông hiểu, một tinh thần hài hước, trong đó bám rễ vào các tập quán châu Á luôn luôn kết hợp với những ảnh hưởng phương Tây, một tinh thần thanh bạch, một sự khắc khổ tự nhiên được ý chí làm cho vững chắc thêm lên, một nghị lực có một không hai. Vâng, tất cả những nét đó trở thành bí quyết của Cụ Hồ trước những thử thách của đời sống xã hội” (9).
Đúng như J.Lacouture đã dự báo, tư tưởng và sự nghiệp văn hóa của Hồ Chí Minh đã vượt qua những thử thách khắc nghiệt của lịch sử và vẫn đang tiếp tục tỏa sáng, đặc biệt là ở vào thời điểm hiện nay, trong một thế giới đang biến động và đầy lo âu; khi mà sự sa sút về đạo đức, sự phản trắc, lừa đảo, hãm hại lẫn nhau,... đang có nguy cơ tăng lên; khi mà hình ảnh của một số lãnh tụ cầm quyền ở nơi này, nơi khác đang bị phê phán và hạ bệ, thì hình ảnh Hồ Chí Minh lại càng nổi bật lên trước con mắt của nhân loại hơn bao giờ hết.
Một nhà báo Vênêxuêla đã viết rất thuyết phục: “Bộ máy tuyên truyền của đế quốc và các thế lực phản động đã rất nổi tiếng trong nghệ thuật vu khống xấu xa, hòng làm mất uy tín những địch thủ của họ. Họ đã chi tiêu rất nhiều tiền hòng bôi nhọ trước dư luận quốc tế đối với những ai, bằng cách này hay cách khác chống lại sự thống trị của họ... Tất cả những lãnh tụ cộng sản nổi tiếng trên thế giới đều được các hãng thông tấn của họ dán cho những “nhãn hiệu” như là những kẻ cướp hoặc khủng bố đáng tội treo cổ! Duy chỉ có Bác Hồ, do tấm gương cuộc đời và đạo đức của Người, đã làm cho những kẻ chuyên nghề vu cáo phải kính nể” (10).

Chú thích:
(1)  Xem thêm: báo Quân đội Nhân dân, Xuân Canh Ngọ, 27/01/1990, tr.2.
(2)  Xem thêm bài phát biểu của Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Di Niên, Chủ tịch Ủy ban UNESCO của Việt Nam, tại Hội thảo quốc tế về Hồ Chí Minh tại Hà Nội, ngày 29, 30/3/1990.
(3)  Hồ Chí Minh: Toàn tập, T.4, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.8.
(4)  Phạm Văn Đồng: Văn hóa và đổi mới, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.126.
(5)  Valluy: Tình bạn thủy chung, Planète Action, tháng 3/1970, tr.38.
(6) Ấn phẩm dạng áp phích được xuất bản và phát hành khoảng 1959-1960 trên giấy hoa văn, dưới có chữ ký của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
(7)  Xem David Halberstam: Ho, Random House, New York, 1970.
(8)  Hồ Chí Minh: Về công tác văn hóa, văn nghệ, NXB Sự thật, Hà Nội, 1970, tr.70-71.
(9) J.Lacouture: Ho Chi Minh, Ed. Seuil, Paris, 1967.
(10)  Hêrômiô Carêra: Hồ Chí Minh - nhân vật kiệt xuất của toàn nhân loại, báo Diễn đàn nhân dân của Vênêxuêla, số 775, ra ngày 19/5/1990.
(Nguồn: Tạp chí Lí luận Chính trị)