1 tháng 8, 2012

VỢ, NGƯỜI TÌNH VÀ HỒNG NHAN TRI KỶ

Thế nào là vợ? Vợ là người con gái mà bạn tình nguyện giao cả gia tài cho cô ấy cất giữ.
Thế nào là người tình? Người tình là người con gái mà bạn hẹn hò vụng trộm với cô ấy và sợ vợ phát hiện.
Thế nào là hồng nhan tri kỷ? Hồng nhan tri kỷ là người con gái mà bạn có thể nói với cô ấy tất cả mọi bí mật kể cả điều mà bạn không thể nói được với vợ hay người tình.
Vợ là một sự ràng buộc, ràng buộc bạn không thể tùy tiện cặp bồ với một người con gái khác. Người tình là một sự bù đắp, bù đắp cho bạn những tình cảm mãnh liệt mà ở người vợ còn thiếu hoặc bạn không tìm được ở người vợ. Hồng nhan tri kỷ là sự chỉ rõ, chỉ rõ sự mê say trong trái tim bạn.
Vợ sống cùng bạn từng ngày, người tình tiêu tiền cùng bạn, hồng nhan tri kỷ nói chuyện cùng bạn. Vợ không thể thay thế người tình, vì vợ không điều khiển được tình cảm như người tình; người tình không thể thay thế vợ, vì người tình không có được tình thân như vợ; vợ và người tình đều không thay thế được hồng nhan tri kỷ, vì đó là nhu cầu của tâm linh.
Vợ là người con gái không hề có chút quan hệ máu mủ nào với bạn nhưng lại bồn chồn mong nhớ mỗi khi màn đêm đã xuống mà bạn chưa về nhà; người tình là người con gái không hề có chút quan hệ gia đình với bạn nhưng lại làm cho bạn thỏa mãn mùi vị ái tình của đấng nam giới; hồng nhan tri kỷ là người con gái chẳng có quan hệ gì với bạn cả nhưng lại có thể chia sẻ với bạn những vui buồn phiền muộn.
Vợ là một ngôi nhà, là một bến cảng mang cho trái tim nông nổi của bạn sự vỗ về an ủi; người tình là gánh nặng của ngôi nhà, chẳng qua chưa đến nỗi vạn bất đắc kỷ, bạn không muốn vứt bỏ; hồng nhan tri kỷ là vật tô điểm cho ngôi nhà, không có cô ấy bạn không thấy cô đơn, nhưng bạn sẽ cảm thấy cuộc sống chẳng có ý nghĩa gì.
Sự quan tâm của người vợ như một ly nước lọc, có lúc trở thành sự lảm nhảm, chỉ khi bị ốm mới trở thành sự ôn hòa; sự quan tâm của người tình như cốc nước lọc đó bỏ thêm chút đường, dần dần qua một đêm rồi mà vẫn chưa thỏa mãn; sự quan tâm của hồng nhan tri kỷ giống như cốc cafe khi bạn đang làm việc lúc nửa đêm, càng uống càng tỉnh.
Khi vợ có bầu thì sẽ hỏi bạn muốn có con gái hay con trai một cách rất tình cảm; khi người tình có bầu với bạn thì sẽ khóc và hỏi bạn phải làm sao bây giờ? Đối với hồng nhan tri kỷ, bạn sẽ kể cho cô ấy nghe chuyện người tình của bạn có bầu và sẽ hỏi cô ấy bạn nên làm thế nào. Ngay đối với người vợ, chỉ sau khi bị cô ấy phát hiện, bạn mới nói rằng: “Thật ra, anh đã muốn nói với em sớm hơn” sau đó cố gắng hết sức để giải thích, và giả bộ rất đáng thương.
Khi vợ về nhà mẹ đẻ một tuần không quay lại, bạn cũng không thấy nhớ; khi người tình mới 3 ngày không gặp bạn liền gọi điện cho cô ấy: Em đi đâu đó? Tối nay chúng mình đến nơi cũ uống cafe được không? Khi trong lòng cảm thấy buồn khổ, bạn chỉ muốn tìm hồng nhan tri kỷ để trò chuyện, nói với cô ấy chuyện vận mệnh của bạn.
Cái mà làm đàn ông không chịu nổi đó là sự lảm nhảm của người vợ, nước mắt của người tình và sự hiểu lầm của hồng nhan tri kỷ. Sự lảm nhảm của người vợ làm đàn ông thấy đã rối cả lòng lại càng thêm rối hơn, nước mắt của người tình làm cho trái tim của đàn ông mềm yếu hơn, sự hiểu lầm của hồng nhan tri kỷ làm cho đàn ông thấy bị tổn thương, hụt hẫng.
Người vợ tốt nhất là người mà đàn ông có thể tìm thấy ở cô ấy người tình và hồng nhan tri kỷ, chỉ là cảm giác thôi mà đàn ông khó có thể tìm thấy. Người tình tốt nhất là người mà khi mối quan hệ của bạn và cô ấy bị vợ bạn phát hiện, cô ấy sẽ chủ động rút lui mà không có một yêu cầu gì hết, nhưng khó mà tìm được điểm này của người tình. Hồng nhan tri kỷ tốt nhất là người đến một ngày nào đó sẽ trở thành người tình, thậm chí thành vợ của bạn, chỉ là cái suy nghĩ này chẳng có chút hiện thực gì cả.
Nếu như có thể, đàn ông rất muốn biến hồng nhan tri kỷ thành người tình, nếu có thể nữa thì sẽ muốn cô ấy thành người vợ. Nhưng nếu hồng nhan tri kỷ trở thành vợ rồi thì sẽ không còn là tri kỷ nữa, bởi vì rất ít đàn ông muốn biến vợ thành tri kỷ. Trái tim đàn ông có rất nhiều bí mật không thể tuỳ tiện nói cho vợ nghe, không thế thì làm sao gọi là đàn ông nữa.
Lấy vợ là vì sợ người khác nói ra nói vào, tìm một người tình là vì muốn thêm chút gia vị vào để điều chỉnh cái cuộc sống tẻ nhạt, muốn có hồng nhan tri kỷ vì muốn tưới cho tâm hồn trống rỗng của họ một chút canh. Đàn ông cả đời đi tìm không phải là vợ, cũng không phải là người tình mà là hồng nhan tri kỷ.
Có những cái mất đi là do chủ ý, có khi duyên phận cũng không đem lại kết quả gì, yêu một người không nhất thiết phải có được người đó, nhưng khi đã có được một người thì nhất định phải trân trọng, đừng đợi đến lúc bị tổn thương rồi mới đi cầu xin tha lỗi, đừng đợi đến lúc mất đi rồi mới đi tìm lại.
Nếu mà không may em bị rớt một giọt nước mắt rồi, khi đó chính là vì em không tự nguyện quên anh là ai.
Vì sao đàn ông thèm có “hồng nhan tri kỷ”?
Nếu nói rằng đối với đàn ông có một người bạn tốt giống như họ được thưởng thức một loại rượu quí, còn một người bạn gái tốt đối với họ thì chỉ còn được ví như một thứ men say ngất ngây, nàng tinh tế và hiểu rõ về chàng, người ấy không phải là vợ, chẳng phải người tình. Một người bạn gái theo đúng nghĩa, một trợ thủ đắc lực, một món quà tặng mà thượng đế mang đến cho người đàn ông nào được may mắn mà có.
Có những lúc chàng buồn có thể uống say, lúc chàng bực có thể hạ cẳng chân cẳng tay ở một nơi nào đó nhưng nếu có một tri kỷ bên mình chàng sẽ cứ thế mà khóc và không sợ rằng bị coi là yếu đuối. Người hồng nhan có thể ngồi hàng giờ để nghe chàng kể lể, chứng kiến sự mềm yếu của chàng ẩn sau vẻ bề ngoài mạnh mẽ.
Người tri kỷ không bao giờ có ý định độc chiếm chàng nhưng tâm lý lại biết cảm thông hết sức. Thường thì, phái yếu mang tâm lý chiếm hữu, càng nhiều tuổi càng không khách quan với người đàn ông của mình, muốn độc chiếm, nhưng hồng nhan tri kỷ thì không như vậy. Mỗi người có một cá tính riêng, nếu nói rằng “một nửa đàn ông là đàn bà” thì trong trường hợp này, người đàn bà ấy chính là hồng nhan tri kỷ.
Người tri kỷ thường quá đỗi thông minh, họ muốn là hình ảnh bất diệt trong lòng người đàn ông mà mình làm tri kỷ, nên họ vừa xa lạ vừa gần gũi và khiến cho đàn ông không thể sở hữu. Mà cái gì càng khó với tới thì càng hấp dẫn đối với các đấng mày râu.
Hồng nhan tri kỷ có thể khiến đàn ông thỏa mãn lòng tự tôn của mình. Có một số người phụ nữ trời sinh ra đã thích hợp là người bạn tốt, họ tôn trọng những mối quan hệ nhẹ nhàng, sợ sự trói buộc và vì thế họ là những người tri kỷ của giới mày râu. Được hưởng sự quan tâm ngoài tình vợ chồng, ngoài tình yêu trai gái của một người khác phái sẽ khiến đàn ông thêm trưởng thành.
Người tri kỷ biết khơi dậy lòng khoan dung và hiểu biết của đàn ông. Đơn giản chỉ vì, được thể hiện bản lĩnh trước người quá hiểu mình, đàn ông không còn phải giữ quá nhiều sĩ diện vốn có.
Có một người tri kỷ bên mình khiến đàn ông ngày thêm hoàn thiện. Ước gì, mỗi người đàn ông thông minh trên trái đất này hãy tìm cách biến những người phụ nữ yêu thương bên cạnh mình, họ là vợ mình, người yêu của mình thành tri kỷ thì cuộc sống này sẽ hài hòa biết chừng nào?
(Sưu tầm)

CƯƠNG LĨNH XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI (BỔ SUNG, PHÁT TRIỂN NĂM 2011)

I- QUÁ TRÌNH CÁCH MẠNG VÀ NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM
1. Từ năm 1930 đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách và giành được những thắng lợi vĩ đại: Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do; thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm lược, mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế; thắng lợi của công cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, tiếp tục đưa đất nước từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội với nhận thức và tư duy mới đúng đắn, phù hợp thực tiễn Việt Nam.
Với những thắng lợi đã giành được trong hơn 80 năm qua, nước ta từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa; nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội; đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, khó khăn, thách thức còn nhiều.
Trong lãnh đạo, Đảng có lúc cũng phạm sai lầm, khuyết điểm, có những sai lầm, khuyết điểm nghiêm trọng do giáo điều, chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan. Đảng đã nghiêm túc tự phê bình, sửa chữa khuyết điểm, tự đổi mới, chỉnh đốn để tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên.
2. Từ thực tiễn phong phú của cách mạng, Đảng đã rút ra những bài học kinh nghiệm lớn:
Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Hai là, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng.
Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đó là truyền thống quý báu và là nguồn sức mạnh to lớn của cách mạng nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết - Thành công, thành công, đại thành công.
Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần kiên định ý chí độc lập, tự chủ và nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại.
Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. Phải phòng và chống những nguy cơ lớn: sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự thoái hoá, biến chất của cán bộ, đảng viên.
II- QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA
1. Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh quốc tế có những biến đổi to lớn và sâu sắc.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức và quá trình toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến sự phát triển của nhiều nước. Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới biểu hiện dưới những hình thức và mức độ khác nhau vẫn tồn tại và phát triển. Hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển là xu thế lớn; nhưng đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp, chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố, tranh chấp lãnh thổ, biển, đảo, tài nguyên và cạnh tranh quyết liệt về lợi ích kinh tế tiếp tục diễn ra phức tạp. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương và Đông Nam Á phát triển năng động, nhưng cũng tiềm ẩn những nhân tố mất ổn định. Tình hình đó tạo thời cơ phát triển, đồng thời đặt ra những thách thức gay gắt, nhất là đối với những nước đang và kém phát triển.
Trong quá trình hình thành và phát triển, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác đã đạt những thành tựu to lớn về nhiều mặt, từng là chỗ dựa cho phong trào hoà bình và cách mạng thế giới, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ là tổn thất lớn đối với phong trào cách mạng thế giới, nhưng một số nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam, vẫn kiên định mục tiêu, lý tưởng, tiến hành cải cách, đổi mới, giành được những thành tựu to lớn, tiếp tục phát triển; phong trào cộng sản và công nhân quốc tế có những bước hồi phục. Tuy nhiên, các nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, phong trào cộng sản và cánh tả còn gặp nhiều khó khăn, các thế lực thù địch tiếp tục chống phá, tìm cách xoá bỏ chủ nghĩa xã hội.
Hiện tại, chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển, nhưng về bản chất vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công. Những mâu thuẫn cơ bản vốn có của chủ nghĩa tư bản, nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hoá ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, chẳng những không giải quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc. Khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội vẫn tiếp tục xảy ra. Chính sự vận động của những mâu thuẫn nội tại đó và cuộc đấu tranh của nhân dân lao động sẽ quyết định vận mệnh của chủ nghĩa tư bản.
Các nước đang phát triển, kém phát triển phải tiến hành cuộc đấu tranh rất khó khăn, phức tạp chống nghèo nàn, lạc hậu, chống mọi sự can thiệp, áp đặt và xâm lược để bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia, dân tộc.
Nhân dân thế giới đang đứng trước những vấn đề toàn cầu cấp bách có liên quan đến vận mệnh loài người. Đó là giữ gìn hoà bình, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, chống khủng bố, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu, hạn chế sự bùng nổ về dân số, phòng ngừa và đẩy lùi những dịch bệnh hiểm nghèo... Việc giải quyết những vấn đề đó đòi hỏi sự hợp tác và tinh thần trách nhiệm cao của tất cả các quốc gia, dân tộc.
Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là các nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng sẽ có những bước tiến mới. Theo quy luật tiến hoá của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội.
2. Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử.
Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
Đây là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen. Chúng ta có nhiều thuận lợi cơ bản: có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, có bản lĩnh chính trị vững vàng và dày dạn kinh nghiệm lãnh đạo; dân tộc ta là một dân tộc anh hùng, có ý chí vươn lên mãnh liệt; nhân dân ta có lòng yêu nước nồng nàn, có truyền thống đoàn kết và nhân ái, cần cù lao động và sáng tạo, luôn ủng hộ và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng; chúng ta đã từng bước xây dựng được những cơ sở vật chất - kỹ thuật rất quan trọng; cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, sự hình thành và phát triển kinh tế tri thức cùng với quá trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế là một thời cơ để phát triển.
Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hoá phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.
Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để thực hiện thành công các mục tiêu trên, toàn Đảng, toàn dân ta cần nêu cao tinh thần cách mạng tiến công, ý chí tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng và trí tuệ, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, quán triệt và thực hiện tốt các phương hướng cơ bản sau đây:
Một là, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Trong quá trình thực hiện các phương hướng cơ bản đó, phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ;... Không phiến diện, cực đoan, duy ý chí.
III- NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG LỚN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ, VĂN HÓA, XÃ HỘI, QUỐC PHÒNG, AN NINH, ĐỐI NGOẠI
1. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển. Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng ngày càng phát triển. Các yếu tố thị trường được tạo lập đồng bộ, các loại thị trường từng bước được xây dựng, phát triển, vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường, vừa bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Phân định rõ quyền của người sở hữu, quyền của người sử dụng tư liệu sản xuất và quyền quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực kinh tế, bảo đảm mọi tư liệu sản xuất đều có người làm chủ, mọi đơn vị kinh tế đều tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình. Quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển; các nguồn lực được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Nhà nước quản lý nền kinh tế, định hướng, điều tiết, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất.
Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm; thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên, môi trường; xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, có hiệu quả và bền vững, gắn kết chặt chẽ công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. Coi trọng phát triển các ngành công nghiệp nặng, công nghiệp chế tạo có tính nền tảng và các ngành công nghiệp có lợi thế; phát triển nông, lâm, ngư nghiệp ngày càng đạt trình độ công nghệ cao, chất lượng cao gắn với công nghiệp chế biến và xây dựng nông thôn mới. Bảo đảm phát triển hài hoà giữa các vùng, miền; thúc đẩy phát triển nhanh các vùng kinh tế trọng điểm, đồng thời tạo điều kiện phát triển các vùng có nhiều khó khăn. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
2. Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hoá gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao. Phát triển, nâng cao chất lượng sáng tạo văn học, nghệ thuật; khẳng định và biểu dương các giá trị chân, thiện, mỹ, phê phán những cái lỗi thời, thấp kém, đấu tranh chống những biểu hiện phản văn hoá. Bảo đảm quyền được thông tin, quyền tự do sáng tạo của công dân. Phát triển các phương tiện thông tin đại chúng đồng bộ, hiện đại, thông tin chân thực, đa dạng, kịp thời, phục vụ có hiệu quả sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân. Kết hợp và phát huy đầy đủ vai trò của xã hội, gia đình, nhà trường, từng tập thể lao động, các đoàn thể và cộng đồng dân cư trong việc chăm lo xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân; có tri thức, sức khoẻ, lao động giỏi; sống có văn hoá, nghĩa tình; có tinh thần quốc tế chân chính. Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách. Đơn vị sản xuất, công tác, học tập, chiến đấu phải là môi trường rèn luyện phong cách làm việc có kỷ luật, có kỹ thuật, có năng suất và hiệu quả cao, bồi đắp tình bạn, tình đồng chí, đồng đội, hình thành nhân cách con người và nền văn hoá Việt Nam.
Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hoá và con người Việt Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư phát triển. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát triển của xã hội; nâng cao chất lượng theo yêu cầu chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế, phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đẩy mạnh xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội và điều kiện cho mọi công dân được học tập suốt đời.
Khoa học và công nghệ giữ vai trò then chốt trong việc phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, bảo vệ tài nguyên và môi trường, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tốc độ phát triển và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Phát triển khoa học và công nghệ nhằm mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phát triển kinh tế tri thức, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới. Phát triển đồng bộ các lĩnh vực khoa học và công nghệ gắn với phát triển văn hoá và nâng cao dân trí. Tăng nhanh và sử dụng có hiệu quả tiềm lực khoa học và công nghệ của đất nước, nghiên cứu và ứng dụng có hiệu quả các thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại trên thế giới. Hình thành đồng bộ cơ chế, chính sách khuyến khích sáng tạo, trọng dụng nhân tài và đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ.
Bảo vệ môi trường là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và nghĩa vụ của mọi công dân. Kết hợp chặt chẽ giữa kiểm soát, ngăn ngừa, khắc phục ô nhiễm với khôi phục và bảo vệ môi trường sinh thái. Phát triển năng lượng sạch, sản xuất sạch và tiêu dùng sạch. Coi trọng nghiên cứu, dự báo và thực hiện các giải pháp ứng phó với quá trình biến đổi khí hậu và thảm họa thiên nhiên. Quản lý, bảo vệ, tái tạo và sử dụng hợp lý, có hiệu quả tài nguyên quốc gia.
Chính sách xã hội đúng đắn, công bằng vì con người là động lực mạnh mẽ phát huy mọi năng lực sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp chặt chẽ, hợp lý phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách; phát triển hài hoà đời sống vật chất và đời sống tinh thần, không ngừng nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội về ăn, ở, đi lại, học tập, nghỉ ngơi, chữa bệnh và nâng cao thể chất, gắn nghĩa vụ với quyền lợi, cống hiến với hưởng thụ, lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể và cộng đồng xã hội.
Tạo môi trường và điều kiện để mọi người lao động có việc làm và thu nhập tốt hơn. Có chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ tạo động lực để phát triển; điều tiết hợp lý thu nhập trong xã hội. Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá nghèo bền vững; giảm dần tình trạng chênh lệch giàu - nghèo giữa các vùng, miền, các tầng lớp dân cư. Hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội. Thực hiện tốt chính sách đối với người và gia đình có công với nước. Chú trọng cải thiện điều kiện sống, lao động và học tập của thanh niên, thiếu niên, giáo dục và bảo vệ trẻ em. Chăm lo đời sống những người cao tuổi, neo đơn, khuyết tật, mất sức lao động và trẻ mồ côi. Hạn chế, tiến tới đẩy lùi tội phạm và giảm tác hại của tệ nạn xã hội. Bảo đảm quy mô hợp lý, cân bằng giới tính và chất lượng dân số.
Xây dựng một cộng đồng xã hội văn minh, trong đó các giai cấp, các tầng lớp dân cư đoàn kết, bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi. Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng; là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Xây dựng, phát huy vai trò chủ thể của giai cấp nông dân trong quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn. Đào tạo, bồi dưỡng, phát huy mọi tiềm năng và sức sáng tạo của đội ngũ trí thức để tạo nguồn lực trí tuệ và nhân tài cho đất nước. Xây dựng đội ngũ những nhà kinh doanh có tài, những nhà quản lý giỏi, có trách nhiệm xã hội, tâm huyết với đất nước và dân tộc. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ kế tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Thực hiện bình đẳng giới và hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ. Quan tâm thích đáng lợi ích và phát huy khả năng của các tầng lớp dân cư khác. Hỗ trợ đồng bào định cư ở nước ngoài ổn định cuộc sống, giữ gìn bản sắc dân tộc, chấp hành tốt pháp luật nước sở tại, hướng về quê hương, tích cực góp phần xây dựng đất nước.
Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc cùng phát triển, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá, ngôn ngữ, truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Chống tư tưởng kỳ thị và chia rẽ dân tộc. Các chính sách kinh tế - xã hội phải phù hợp với đặc thù của các vùng và các dân tộc, nhất là các dân tộc thiểu số.
Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân theo quy định của pháp luật. Đấu tranh và xử lý nghiêm đối với mọi hành động vi phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo và lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ của quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hoà bình, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt. Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, kết hợp chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân vững chắc. Phát triển đường lối, nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân và lý luận, khoa học an ninh nhân dân. Chủ động, tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh.
Sự ổn định và phát triển bền vững mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội là nền tảng vững chắc của quốc phòng - an ninh. Phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với tăng cường sức mạnh quốc phòng - an ninh. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng - an ninh, quốc phòng - an ninh với kinh tế trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế - xã hội và trên từng địa bàn.
Xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, được nhân dân tin yêu. Xây dựng Quân đội nhân dân với số quân thường trực hợp lý, có sức chiến đấu cao; lực lượng dự bị động viên hùng hậu, dân quân tự vệ rộng khắp. Xây dựng lực lượng Công an nhân dân vững mạnh toàn diện; kết hợp lực lượng chuyên trách, bán chuyên trách, các cơ quan bảo vệ pháp luật với phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Chăm lo nâng cao phẩm chất cách mạng, trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, chiến sĩ các lực lượng vũ trang; bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần phù hợp với tính chất hoạt động của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân trong điều kiện mới. Xây dựng nền công nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo đảm cho các lực lượng vũ trang được trang bị kỹ thuật từng bước hiện đại.
Tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp quốc phòng - an ninh.
4. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.
Trước sau như một ủng hộ các đảng cộng sản và công nhân, các phong trào tiến bộ xã hội trong cuộc đấu tranh vì những mục tiêu chung của thời đại; mở rộng quan hệ với các đảng cánh tả, đảng cầm quyền và những đảng khác trên cơ sở bảo đảm lợi ích quốc gia, giữ vững độc lập, tự chủ, vì hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển.
Tăng cường hiểu biết, tình hữu nghị và hợp tác giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước trên thế giới.
Phấn đấu cùng các nước Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển phồn vinh.
IV- HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VÀ VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
1. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hoá bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm.
Nhà nước tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người. Quyền và nghĩa vụ công dân do Hiến pháp và pháp luật quy định. Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ công dân.
Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện.
2. Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lạm quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân; giữ nghiêm kỷ cương xã hội, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân.
Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có sự phân công, phân cấp, đồng thời bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương.
3. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, chăm lo lợi ích của các đoàn viên, hội viên; thực hiện dân chủ và xây dựng xã hội lành mạnh; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước; giáo dục lý tưởng và đạo đức cách mạng, quyền và nghĩa vụ công dân, tăng cường mối liên hệ giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, các dân tộc, tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận của hệ thống chính trị, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên vừa là người lãnh đạo Mặt trận. Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động giữa các thành viên.
Các đoàn thể nhân dân tuỳ theo tính chất, tôn chỉ và mục đích đã được xác định, vận động, giáo dục đoàn viên, hội viên chấp hành luật pháp, chính sách; chăm lo, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên; giúp đoàn viên, hội viên nâng cao trình độ về mọi mặt và xây dựng cuộc sống mới; tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Đảng tôn trọng tính tự chủ, ủng hộ mọi hoạt động tự nguyện, tích cực, sáng tạo và chân thành lắng nghe ý kiến đóng góp của Mặt trận và các đoàn thể. Đảng, Nhà nước có cơ chế, chính sách, tạo điều kiện để Mặt trận và các đoàn thể nhân dân hoạt động có hiệu quả, thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi.
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu. Đảng thường xuyên nâng cao năng lực cầm quyền và hiệu quả lãnh đạo, đồng thời phát huy mạnh mẽ vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị.
Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống ấy. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực lãnh đạo. Giữ vững truyền thống đoàn kết thống nhất trong Đảng, tăng cường dân chủ và kỷ luật trong hoạt động của Đảng. Thường xuyên tự phê bình và phê bình, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và mọi hành động chia rẽ, bè phái. Đảng chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, có phẩm chất, năng lực, có sức chiến đấu cao theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; quan tâm bồi dưỡng, đào tạo lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.
Cương lĩnh của Đảng là ngọn cờ chiến đấu vì thắng lợi của sự nghiệp xây dựng đất nước Việt Nam từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, định hướng cho mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và nhân dân ta trong những thập kỷ tới. Thực hiện thắng lợi Cương lĩnh này, nước nhà nhất định trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, hạnh phúc.
Đảng kêu gọi tất cả đảng viên của Đảng, toàn thể đồng bào Việt Nam ở trong nước và ở nước ngoài mang hết tinh thần và nghị lực phấn đấu thực hiện thắng lợi Cương lĩnh, vững bước đi tới tương lai.

NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN VÀ NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA CƯƠNG LĨNH XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH (BỔ SUNG, PHÁT TRIỂN NĂM 2011)

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) - gọi tắt là Cương lĩnh 2011 về cơ bản giữ lại những nội dung quan trọng của Cương lĩnh 1991 mà cho đến nay qua sự kiểm nghiệm của thời gian chúng ta thấy vẫn còn nguyên giá trị. Chúng ta bổ sung và phát triển thêm nhiều nội dung mới mà những nội dung ấy phải đảm bảo được nguyên tắc: Một là, đây là những nội dung cho đến nay đã rõ, đã thống nhất, đã được kiểm nghiệm trong thực tiễn, đã được thể hiện, được khẳng định trong nghị quyết các Đại hội, các Hội nghị Trung ương; Hai là, không đưa vào Cương lĩnh 2011 những nội dung chưa rõ, chưa được nhận thức, chưa được khẳng định tính đúng đắn trong thực tiễn.
Cương lĩnh 2011 cơ bản giữ kết cấu tổng thể của Cương lĩnh 1991. Có 4 phần lớn: Phần thứ nhất, quá trình cách mạng Việt Nam và những bài học kinh nghiệm; phần thứ hai, thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở nước ta; phần thứ ba, những định hướng lớn về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; phần thứ tư, về hệ thống chính trị và sự lãnh đạo của Đảng. Đây là 4 phần được kết cấu rất chặt chẽ; phần đầu là chuẩn bị và mở ra cho phần tiếp theo; phần tiếp theo là cụ thể hóa những nội dung của phần trước đó.
Phần thứ nhất: Quá trình cách mạng và những bài học kinh nghiệm
1. Về quá trình cách mạng, có hai điểm chúng ta cần chú ý.
Điểm thứ nhất, Cương lĩnh đã khẳng định những thắng lợi vĩ đại, những thành tựu to lớn của cách mạng Việt Nam 80 năm qua. Cương lĩnh 1991 được xây dựng và ban hành năm 1991- tức là tổng kết và nhìn lại 60 năm cách mạng Việt Nam. Trong Cương lĩnh 1991 có điểm lại quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam qua 3 chặng đường chính: một là, thời kỳ đấu tranh giành chính quyền, tiến hành kháng chiến để bảo vệ chính quyền, bảo vệ thành quả cách mạng qua các năm 1930, 1945, 1954, 1975, coi đó là một chặng đường lớn; hai là, chặng đường cả nước đi lên CNXH; ba là, những năm đầu đổi mới.
Cương lĩnh 1991 nhìn lại quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam theo các thời kỳ, giai đoạn phát triển của cách mạng. Đến Cương lĩnh 2011, trên cơ sở kế thừa những nội dung của Cương lĩnh 1991 có khái quát hơn, bổ sung thêm quá trình thực tiễn của 20 năm đổi mới và nhấn mạnh vào 3 thắng lợi vĩ đại: một là, Cách mạng Tháng Tám; hai là, những cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc, bảo vệ độc lập chủ quyền và làm tròn nghĩa vụ quốc tế; ba là, thắng lợi của công cuộc đổi mới. Cách trình bày về quá trình cách mạng Việt Nam trong Cương lĩnh 2011 so với Cương lĩnh 1991 khái quát hơn, đánh giá, cân nhắc chính xác hơn, có tính đến sự tinh tế trong quan hệ quốc tế.
Nhìn lại quá trình cách mạng Việt Nam, trong Cương lĩnh 1991 cũng như trong Cương lĩnh 2011 đều có phần đánh giá một cách rất nghiêm khắc những sai lầm, khuyết điểm của Đảng ta trong quá trình lãnh đạo cách mạng. Cương lĩnh 1991 viết dài hơn, cụ thể hơn. Cương lĩnh 2011 viết khái quát hơn, sâu sắc hơn, trong đó nhấn mạnh, trong quá trình lãnh đạo, cũng có lúc Đảng mắc khuyết điểm, sai lầm, có những khuyết điểm, sai lầm nghiêm trọng. Nguyên nhân của khuyết điểm, sai lầm nghiêm trọng đó chính là bệnh chủ quan, giáo điều, duy ý chí và chính vì chủ quan, giáo điều, duy ý chí mà chúng ta đã vi phạm quy luật phát triển khách quan. Cương lĩnh 2011 cũng phản ánh thái độ của Đảng ta trong việc nhận thức và sửa chữa sai lầm, nêu rõ Đảng ta đã kịp thời và nghiêm túc nhận ra những khuyết điểm, sai lầm và quyết tâm sửa chữa khuyết điểm, sai lầm, quyết tâm tự đổi mới, chỉnh đốn Đảng để tiếp tục đưa cách mạng Việt Nam tiến lên.
Điểm thứ hai, trên cơ sở đánh giá những thắng lợi của 80 năm qua, Cương lĩnh 2011 nhấn mạnh 3 thành tựu hết sức quan trọng, ba sự thay đổi có tính cách mạng: Thành tựu thứ nhất là sự thay đổi vận mệnh đất nước, dân tộc. Chính nhờ những thắng lợi vĩ đại nói trên mà vận mệnh đất nước thay đổi, từ một xứ nô lệ của thực dân Pháp trở thành một quốc gia độc lập, có chủ quyền, độc lập, phát triển theo con đường XHCN. Thành tựu thứ hai là sự thay đổi thân phận con người. Chính nhờ những thắng lợi vĩ đại đó mà con người Việt Nam ta từ thân phận của những người nô lệ đã trở thành những người làm chủ đất nước và xã hội. Thành tựu thứ ba có ý nghĩa lịch sử là sự thay đổi cục diện và vị thế của đất nước, từ một đất nước nghèo, kém phát triển chúng ta đã đẩy mạnh CNH, HĐH, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và thế giới.
2. Nội dung cuối cùng của phần thứ nhất đúc kết những bài học kinh nghiệm lớn qua 80 năm. Trong Cương lĩnh 1991, trên cơ sở thực tiễn 60 năm, Đảng ta có đưa ra 5 bài học lớn: một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH; hai là, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; ba là, không ngừng củng cố và tăng cường đoàn kết, đoàn kết trong nội bộ Đảng, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế; bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế; năm là, sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu đảm bảo thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Năm bài học mà Cương lĩnh 1991 tổng kết, đúc kết là sự kết hợp khá nhuần nhuyễn các nhân tố về chính trị, tư tưởng, tổ chức, các nhân tố bên trong và bên ngoài để tạo thành sức mạnh tổng hợp quyết định thắng lợi của cách mạng nước ta trong 60 năm qua.
Cương lĩnh 2011 kế thừa về cơ bản 5 bài học được trình bày trong Cương lĩnh 1991, nhưng bổ sung, hoàn thiện, làm sâu sắc hơn, cập nhập hơn một số ý sau đây: một là, bổ sung và làm sâu sắc hơn bài học về sự gắn bó máu thịt với nhân dân. Cương lĩnh 1991 khẳng định, vấn đề quan hệ với dân, lấy dân làm gốc, dân làm chủ là quan trọng, đến Cương lĩnh 2011 đã chỉ ra những nguy cơ nếu Đảng xa rời dân. Cương lĩnh 2011 có một đoạn bổ sung: quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ XHCN và của Đảng. Hai là, Cương lĩnh 2011 nhấn mạnh sự kiên định ý chí độc lập, tự chủ gắn liền với tinh thần hợp tác quốc tế, phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực. Ba là, đề cao tầm quan trọng đặc biệt sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Trong Cương lĩnh 1991, chúng ta thể hiện bài học về sự lãnh đạo của Đảng: “Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng”, đến Cương lĩnh 2011, thay hai từ “bảo đảm” bằng từ “quyết định” nhấn mạnh sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Trong nội dung của Cương lĩnh 2011, phần thứ nhất tuy gọn nhưng rất quan trọng. Đây không đơn giản là phần đặt vấn đề, phần mở đầu của Cương lĩnh mà là sự khẳng định tính đúng đắn và giá trị tư tưởng, hành động của Đảng ta, của nhân dân ta trong chặng đường 80 năm qua, khẳng định giá trị cách mạng và khoa học của các cương lĩnh trước đó. Một sự khẳng định hết sức quan trọng khi mà bên ngoài các thế lực chống đối, các thế lực thù địch phê phán chúng ta đi sai đường, chệch đường, chọn CNXH là đi vào đường hầm bế tắc. Cương lĩnh khẳng định lại những thắng lợi vĩ đại, những thành tựu có ý nghĩa lịch sử chính là khẳng định tính đúng đắn được kiểm chứng trong thực tiễn con đường chúng ta đang đi, sẽ đi; khẳng định tính đúng đắn của những tư duy, những tư tưởng đã được thể hiện trong những cương lĩnh cách mạng. Phần này có thể nói là phần đặt cơ sở về nhận thức lý luận và cơ sở thực tiễn cho những nội dung của 3 phần tiếp theo.
Phần thứ hai: Quá độ lên CNXH ở nước ta
Đây là phần rất quan trọng của Cương lĩnh 2011, trình bày những quan điểm, tư tưởng cốt lõi nhất của Đảng ta, những nhận thức quan trọng nhất của Đảng ta về bối cảnh thời đại ngày nay, về mục tiêu, về mô hình CNXH mà chúng ta xây dựng, về định hướng phát triển đất nước trong vài thập kỷ tới. Trong phần này có mấy điểm cần lưu ý sau đây:
1. Trước hết, phần này thể hiện nhận thức nhất quán của Đảng ta về thời kỳ quá độ. Trong quá trình nghiên cứu, chuẩn bị bổ sung, phát triển Cương lĩnh 2011, về lý luận có những ý kiến tranh luận. Có một số đồng chí nói là có lẽ không nên dùng khái niệm “thời kỳ quá độ”, chỉ nên dùng khái niệm “quá độ”. Có đồng chí nói nên gọi là Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ mới, hoặc là xây dựng đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, hội nhập quốc tế. Vì sao lại nói là không nên dùng khái niệm “thời kỳ quá độ” , bởi vì nội hàm thời kỳ quá độ, các đặc điểm thời kỳ quá độ chưa rõ lắm. Nếu theo nhận thức cũ thì thời kỳ quá độ hình như bây giờ không còn phù hợp nữa. Nhận thức mới về đặc trưng thời kỳ quá độ là thế nào? Cũng chưa thật rõ lắm. Về phân kỳ thời kỳ quá độ, có bao nhiêu giai đoạn, bắt đầu từ đâu và bao giờ kết thúc, cũng chưa rõ lắm. Quả thật vấn đề “thời kỳ quá độ” còn cần phải tiếp tục nghiên cứu để làm sâu sắc hơn, rõ hơn. Quá độ về chính trị thế nào? Quá độ về kinh tế thế nào? Quá độ về văn hóa thế nào? Quá độ xã hội thế nào? Trong Cương lĩnh khi đưa ra những đặc trưng của mô hình CNXH cũng đã phần nào nói đến những đặc điểm, đặc trưng của thời kỳ quá độ. Khi phân tích bối cảnh của thời đại ngày nay cũng đã phần nào nói đến tính chất của thời kỳ quá độ. Tuy nhiên, chúng ta vẫn cần tiếp tục nghiên cứu một cách có hệ thống cho rõ hơn, tạo sự thống nhất cao hơn. Chúng ta cần phải nghiên cứu sâu hơn cách phân kỳ thời kỳ quá độ để hình dung được lộ trình, con đường thực hiện trong thời kỳ quá độ. Chúng ta thống nhất nhận thức rằng, thời kỳ quá độ là một thời gian rất dài, song ở nước ta dài là khoảng bao nhiêu năm? dưới 100 năm hay trên 100 năm và trong chặng đường 100 năm hoặc trên 100 năm ấy thì về đại thể sẽ có những giai đoạn nào? Bước đi thế nào? Vấn đề này cũng đã nghiên cứu nhưng cần phải tiếp tục làm rõ hơn.
Sau khi thảo luận, tranh luận, Bộ Chính trị đã trình Trung ương, trình Đại hội XI thì vẫn đạt sự thống nhất cao là cần thiết phải dùng khái niệm “thời kỳ quá độ”. Sự cần thiết này căn cứ vào những cơ sở nhận thức lý luận và căn cứ vào tổng kết thực tiễn. Về mặt nhận thức lý luận thì từ một hình thái kinh tế - xã hội này sang một hình thái kinh tế - xã hội khác tất yếu phải có một giai đoạn chuyển tiếp; từ chủ nghĩa tư bản sang CNXH tất yếu phải có một giai đoạn dài, chuyển tiếp rất lâu dài. Các Mác đã dùng khái niệm thời kỳ quá độ từ tư bản chủ nghĩa lên hình thái cộng sản chủ nghĩa. Lênin cụ thể hóa khái niệm giai đoạn chuyển tiếp từ chủ nghĩa tư bản lên cộng sản chủ nghĩa qua 3 thời kỳ, trong đó có thời kỳ đầu là thời kỳ quá độ, mà Lênin gọi là “thời kỳ đau đẻ kéo dài”.
Đặc điểm nổi bật nhất của thời kỳ quá độ là gì? Đó là thời kỳ cái cũ vẫn đang tồn tại và bị triệt tiêu dần, chuyển hóa dần; cái mới từng bước xuất hiện ngày càng lớn lên; cái cũ chưa mất đi, cái mới chưa hình thành đầy đủ, cái cũ, cái mới đan xen nhau, tác động lẫn nhau. Do vậy, để khắc phục, chuyển hóa cái cũ, để chăm lo bồi đắp, phát huy cái mới, khẳng định cái mới cần phải có một thời kỳ dài với các phương pháp, phương thức, các hình thức tổ chức quá độ trung gian. Đây là một thời kỳ đòi hỏi chúng ta phải có một sự vững vàng, kiên định về nguyên tắc, nhưng hết sức mềm dẻo, linh hoạt về phương pháp, phương thức tổ chức.
Trong phương pháp, phương thức, trong hình thức tổ chức, thời kỳ quá độ là thời kỳ diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt giữa cái cũ, cái mới, cái đúng, cái sai. Về thực tiễn, chúng ta bắt tay vào xây dựng CNXH ở miền Bắc từ năm 1954 cho đến nay đã trải qua mấy chục năm. Thực tiễn cho thấy để chuyển một xã hội thuộc địa nửa phong kiến, mà thực chất có thể nói là một xã hội tiền tư bản lên CNXH thật sự là một quá trình lâu dài, gian khổ, phức tạp, đòi hỏi những bước đi quá độ, những hình thức tổ chức trung gian, lúc tiến, lúc lùi, có những lúc khó khăn, có những lúc khủng hoảng. Nhận thức lý luận cũng thế, thực tiễn diễn ra cũng thế, cho nên cần thiết phải nghiên cứu sâu hơn về thời kỳ quá độ. Trong tư tưởng, trong chỉ đạo thực tiễn cũng cần thiết phải nhận thức thời kỳ quá độ để chúng ta cố gắng, quyết tâm khắc phục cho được nguyên nhân sâu xa dẫn đến sai lầm. Chủ quan, nóng vội, muốn đốt cháy giai đoạn, duy ý chí, chính là do không nhận thức đầy đủ tính chất lâu dài, phức tạp của thời kỳ quá độ, muốn có ngay một sớm, một chiều CNXH.
Chúng ta cũng cần tỉnh táo để không mắc bẫy luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, rằng “CNXH ở Việt Nam nói một đằng, làm một nẻo, nói thì hay lắm, dân chủ, bình đẳng hơn triệu lần CNTB, nhưng thực tế không có”. Chúng ta đang phấn đấu đến cái tốt đẹp, phấn đấu đến một nền dân chủ đích thực, bình đẳng đích thực gấp triệu lần chế độ tư bản. Đây là điều chúng ta phải làm, quyết làm, song, trước mắt, khi đất nước còn nhiều khó khăn về kinh tế, xã hội, khi cái cũ, cái mới còn đan xen, tác động lẫn nhau, trong thời kỳ quá độ, chúng ta buộc phải chấp nhận còn có bóc lột, còn có bất công, còn có tiêu cực. Sẽ đẩy lùi, khắc phục từng bước để xã hội ngày càng tốt đẹp hơn. Cũng cần hiểu để có thể bình tĩnh hơn, tránh ngộ nhận ta đã có CNXH rồi, hoang mang không tự giải thích được nghịch lý đang tồn tại, dẫn đến bi quan: chả nhẽ CNXH mà như thế này sao?
2. Trong phần thời kỳ quá độ có 2 nội dung lớn:
- Nội dung thứ nhất, bối cảnh quốc tế trong thời đại ngày nay. Trong Cương lĩnh 1991 có phần phản ánh và dự báo tình hình quốc tế những năm cuối thế kỷ XX. Nhiều nhận định và đánh giá của Cương lĩnh 1991 cho đến bây giờ vẫn còn giá trị. Tuy nhiên, 20 năm qua, cục diện và tình hình thế giới đã có những thay đổi lớn, xuất hiện nhiều xu hướng, nhiều khuynh hướng, nhiều tình huống rất mới, rất bất ngờ, khó lường (Chẳng hạn, năm ngoái có ai hình dung trong thời gian ngắn, ở Bắc Phi và Trung Đông diễn ra cuộc biến động chính trị làm rung động toàn cầu!). Trên cơ sở nhận thức, phân tích, mổ xẻ diễn biến của 20 năm trong đời sống quốc tế, Cương lĩnh 2011 có bổ sung, phát triển thêm, cập nhập hóa và đưa ra những dự báo tổng thể về bối cảnh quốc tế trong thời đại ngày nay. Vấn đề khái niệm thời đại rộng lắm: thời đại đồ đá, thời đại đồ đồng… Thời đại chúng ta muốn nói là thời đại trong bối cảnh ngày nay. So với Cương lĩnh 1991, phần trình bày về bối cảnh quốc tế trong Cương lĩnh 2011 đầy đủ hơn, cập nhập hơn, phong phú hơn trong đó có 6 nhóm vấn đề được đề cập trong Cương lĩnh: Nhóm vấn đề thứ nhất, đặc điểm và xu thế chung của thời đại ngày nay, trong đó có nói đến cách mạng khoa học công nghệ; đến kinh tế tri thức; đến toàn cầu hóa, xem đó như là 3 nhân tố mà trong những thập niên tới sẽ tác động mạnh mẽ đến đời sống của các quốc gia, đời sống nhân loại. Nói đến các mâu thuẫn cơ bản của thời đại. Bây giờ dù được biểu hiện dưới các hình thức mới, các phương thức mới, nhưng về cơ bản các mâu thuẫn thời đại vẫn đang tồn tại. Nói đến xu thế hòa bình, hợp tác, phát triển, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ thì vẫn là xu thế lớn. Nhưng bên cạnh xu hướng chính ấy vẫn luôn diễn ra, luôn tiềm ẩn sự cạnh tranh, xung đột cục bộ, nhất là sự cạnh tranh ngày càng gay gắt về nguyên liệu, về địa bàn chiến lược. Có dự báo về sự năng động và các nguy cơ mất ổn định tiềm ẩn ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Nhóm vấn đề thứ hai là nhận định và đánh giá về CNXH trước đây và hiện nay, trong đó có đánh giá thành tựu và đóng góp to lớn của Liên Xô và hệ thống CNXH trước đây; đánh giá những tổn thất thực tế sau khi mô hình CNXH ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ; sự phục hồi đầy khó khăn của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Nhóm vấn đề thứ 3 là đưa ra nhận định, đánh giá về chủ nghĩa tư bản hiện đại. Chúng ta thừa nhận tiềm năng còn có của chủ nghĩa tư bản và cũng chỉ ra được bản chất và mâu thuẫn không thể khắc phục được của chủ nghĩa tư bản hiện đại, đặc biệt là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hoá ngày càng cao của lực lượng sản xuất hiện đại với chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Chính bản thân các nước tư bản nhận thức rất sâu sắc về vấn đề này. Những ý kiến phát biểu của những người đứng đầu các nước tư bản chủ nghĩa trong Hội nghị ở Đavốt (Thụy Sĩ) khi đánh giá khủng hoảng tài chính, tiền tệ, suy giảm kinh tế toàn cầu (2008 - 2009) cho thấy chính những người lãnh đạo, những lý thuyết gia của chủ nghĩa tư bản đã nhận thấy chủ nghĩa tư bản như mô hình hiện nay không còn hợp lý nữa, chứa đựng những bất công, những bất hợp lý cần phải thay đổi. Cương lĩnh 2011 nhận định, sự tác động của mâu thuẫn cơ bản và phong trào của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, nhân loại tiến bộ sẽ quyết định vận mệnh cuối cùng của chủ nghĩa tư bản. Đây là nhận định khách quan, không phải là suy nghĩ chủ quan của chúng ta. Nhóm vấn đề thứ tư là đánh giá tình hình các nước đang phát triển và kém phát triển trong bối cảnh thế giới sôi động. Nhóm vấn đề thứ năm là những vấn đề toàn cầu đang và ngày càng tác động đến vận mệnh của loài người. Nhóm vấn đề thứ sáu là nhận định về đặc điểm lớn nhất trong giai đoạn hiện nay của thời đại. Trong Cương lĩnh 1991 nhấn mạnh cuộc đấu tranh dân tộc và giai cấp gay go, quyết liệt. Cái đó đúng với thực tiễn giai đoạn đó. Qua diễn biến của tình hình thế giới, cục diện thế giới trong 20 năm, Cương lĩnh 2011 đưa ra nhận thức về đặc điểm lớn nhất trong giai đoạn hiện nay của thời đại là các nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau, cùng tồn tại, vừa hợp tác, vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Toàn cầu hóa, thế giới phẳng, lợi ích của các nước vượt ra ngoài phạm vi các quốc gia, nhu cầu phải hợp tác trên phạm vi quốc tế ngày càng trở nên phổ biến. Các quốc gia lớn, nhỏ, mạnh, yếu tùy thuộc lẫn nhau, ràng buộc lẫn nhau tạo thành một xu thế, một hiện thực là các nước tuy có chế độ xã hội khác nhau, trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, cùng hợp tác vì mục tiêu chung là hòa bình và phát triển. Nhưng bên cạnh đặc điểm nổi bật ấy, vẫn còn tồn tại xu hướng đấu tranh, cạnh tranh quyết liệt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Chưa bao giờ vấn đề lợi ích của quốc gia, dân tộc lại được đặt thành trung tâm điểm trong chiến lược phát triển của các nước như giai đoạn bây giờ và sắp tới.
Kết lại toàn bộ nhận định bối cảnh quốc tế thì có một luận điểm rất quan trọng là: “cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức nhưng có bước phát triển mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới CNXH”. Đây là quy luật khách quan. Ngay cả những nhà lý luận tư bản cũng đã thấy rằng mô hình chủ nghĩa tư bản hiện đại không còn phù hợp nữa và phải tự vượt qua. Tất nhiên, họ không bao giờ chịu thừa nhận mô hình tự vượt qua ấy chính là mô hình của CNXH. Họ đưa ra các khái niệm xã hội hậu công nghiệp, xã hội hậu hiện đại, xã hội phúc lợi chung, xã hội tiêu thụ… Những cái đó đều là sự khẳng định rằng cái chủ nghĩa tư bản đang và tất yếu sẽ phải bị vượt qua. Chúng ta tin sự vượt qua ấy không có gì khác chính là CNXH. Điều này Các Mác đã dự báo, chính trong các nước tư bản phát triển đã chuẩn bị những tiền đề cho CNXH. Cho nên gọi là quá độ không chỉ là quá độ của từng nước từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH mà quá độ có tính thời đại, một xu thế quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH. Đấy là con đường phát triển tất yếu: loài người sẽ tiến tới CNXH.
- Nội dung thứ hai, những đặc trưng của mô hình CNXH mà Đảng và nhân dân ta phấn đấu xây dựng, mục tiêu và những phương hướng cơ bản. Cương lĩnh 2011 đã kế thừa và tiếp tục hoàn thiện về mô hình CNXH ở nước ta. Cương lĩnh 1991 có phác họa sáu đặc trưng cơ bản của mô hình CNXH mà chúng ta xây dựng: (1) Do nhân dân lao động làm chủ; (2) Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; (3) Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; (4) Con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, làm theo năng lực hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; (5) Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; (6) Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới. Sáu đặc trưng đó đã thể hiện một mô hình khá toàn diện, phản ánh được đặc trưng chính trị, đặc trưng kinh tế, văn hóa, xã hội và các mối quan hệ bên trong và bên ngoài. Cương lĩnh 2011 bổ sung, hoàn thiện sáu đặc trưng được trình bày trong Cương lĩnh 1991 và bổ sung thêm hai đặc trưng mới.
Về sáu đặc trưng đã được trình bày trong Cương lĩnh 1991, trước hết, Cương lĩnh 2011 mở rộng biên độ “nhân dân làm chủ”. Trong Cương lĩnh 1991 nói là “do nhân dân lao động làm chủ”. Cương lĩnh 2011 nói là “do nhân dân làm chủ”, bỏ 2 từ “lao động”. Ý tứ là, đến khi chúng ta hoàn thành xây dựng CNXH thì danh giới giữa nhân dân lao động và không lao động là không còn ý nghĩa nữa và giữa lao động chân tay và lao động trí óc không còn danh giới tuyệt đối nữa, mà nhân dân trong CNXH là một cộng đồng xã hội bao gồm những người lao động với các phương thức, hình thức lao động khác nhau, phù hợp với năng lực và sở trường của mình. Khái niệm “nhân dân làm chủ” dùng trong Cương lĩnh 2011 là bước nhận thức mới. Điểm thứ hai là điều chỉnh đặc trưng kinh tế theo một nhận thức đầy đủ hơn. Cương lĩnh 1991nhấn rất mạnh “chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu”. Đến Đại hội X chúng ta kế thừa nhận thức đó, nhưng trình bày một cách đầy đủ hơn. Cương lĩnh 2011 nhấn mạnh sự tương thích giữa lực lượng sản xuất hiện đại với chế độ công hữu tư liệu sản xuất là muốn nhấn mạnh nội dung quan trọng nhất trong quan hệ sản xuất XHCN. Đại hội X nhấn mạnh là “có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”. Hiểu theo cách diễn đạt của Đại hội X, có nghĩa là, nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại không chỉ phù hợp với nội dung quan trọng nhất của quan hệ sản xuất XHCN mà phù hợp với toàn bộ các thành tố của quan hệ sản xuất XHCN. Trong quan hệ sản xuất thì rất quan trọng là vấn đề sở hữu, nhưng không kém phần quan trọng và ngày càng quan trọng là chế độ quản lý và chế độ phân phối. Nhấn mạnh “chế độ công hữu” là nhấn mạnh một nội dung quan trọng nhất, nhưng chưa phản ánh được hai nội dung cũng quan trọng của quan hệ sản xuất là “quản lý” và “phân phối”. Đại hội X trình bày đầy đủ hơn, toàn diện hơn. Đến Cương lĩnh 2011 có hai điều chỉnh là, thêm chữ “tiến bộ” trước chữ “phù hợp” và bỏ vế sau “với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”. Đây là sự tiếp tục hoàn thiện nhận thức của Đảng ta về mối tương quan giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Khái niệm “quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp” được hiểu là quan hệ sản xuất không chỉ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất như là Cương lĩnh 1991 nói, mà phù hợp với xu thế phát triển khách quan của xã hội loài người; phù hợp với bản chất của chế độ XHCN và phù hợp với đường lối, chủ trương phát triển một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước mà chúng ta kiên trì thực hiện trong nhiều năm nay và trong lâu dài. Cách diễn đạt trong Cương lĩnh 2011 không trái với cách diễn đạt trong Cương lĩnh 1991 mà chính là sự kế thừa, bổ sung, hoàn thiện hơn nhận thức về tính chất của nền kinh tế chúng ta xây dựng trong CNXH. Nó phản ánh một cách biện chứng hơn, đầy đủ hơn, toàn diện hơn mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Điểm thứ ba, trong Cương lĩnh 2011 vẫn giữ nguyên đặc trưng văn hóa vì đặc trưng xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một đặc trưng rất đầy đủ, không cần bổ sung thêm. Đặc trưng thứ tư trong Cương lĩnh 2011 là đặc trưng về con người. Cương lĩnh 1991 viết quá cụ thể. Cương lĩnh 2011 diễn đạt khái quát hơn, nêu bật những tư tưởng cơ bản phù hợp với tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người: Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện. Nói như vậy là đủ, không cần phải diễn đạt quá chi tiết, quá cụ thể như trong Cương lĩnh 1991. Đặc trưng thứ năm về dân tộc. Cương lĩnh 2011 mở rộng phạm vi các dân tộc, thay cụm từ “các dân tộc trong nước” bằng cụm từ “các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam”. Khái niệm “cộng đồng Việt Nam” rộng hơn khái niệm “trong nước”. Cương lĩnh 1991 lúc ấy, do bối cảnh chính trị cụ thể, chưa thấy hết tầm quan trọng của việc tập hợp, đoàn kết một bộ phận máu thịt của dân tộc là cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Cương lĩnh 2011 sử dụng khái niệm “các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam” đầy đủ hơn, chặt chẽ hơn và thêm 2 cụm từ “tôn trọng lẫn nhau”. Cương lĩnh 1991 nhấn mạnh các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, giúp đỡ nhau, nhưng còn một điều nữa là tôn trọng nhau. Sự kì thị dân tộc phát sinh do chính sách “chia để trị” của thực dân, đế quốc trước đây, đến bây giờ vẫn còn để lại di căn tư tưởng kỳ thị dân tộc, coi thường lẫn nhau, nhất là các dân tộc thiểu số. Thêm cụm từ “tôn trọng” là nhằm khắc phục cho được sự kì thị dân tộc. Đặc trưng thứ sáu về quốc tế. Cương lĩnh 2011 bỏ 2 từ “nhân dân” trong cụm từ “có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các dân tộc trên thế giới” và thay bằng “có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”. Phạm vi “có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước” rộng hơn phạm vi “có quan hệ với nhân dân tất cả các nước”, thể hiện đúng đường lối, quan điểm của Đảng ta quan hệ với các đảng (đảng cầm quyền, đảng cánh tả và đảng chính trị), quan hệ với các nước, các nhà nước có chế độ chính trị khác nhau.
Cương lĩnh 2011 có bổ sung 2 đặc trưng mới: Đặc trưng thứ nhất là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, đưa thành đặc trưng đầu tiên. Đây là đặc trưng tổng quát nhất, vừa phản ánh mục tiêu phấn đấu, vừa phản ánh bản chất chế độ XHCN mà Đảng và nhân dân ta xây dựng. Đặc trưng này đã được xác định từ Đại hội X, nhưng đến Cương lĩnh 2011 có sự điều chỉnh đưa “dân chủ” lên trên “công bằng”. Đại hội X nói là “xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”. Cương lĩnh 2011 thì nói là “xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”. Đây không chỉ đơn thuần là sự đảo câu chữ cho vui mà là cả một quan niệm, cả một ý tưởng. Đưa “dân chủ” lên trên “công bằng” với hàm ý rằng, dân chủ chính là điều kiện tiên quyết, là nhân tố quan trọng để đảm bảo công bằng và tiến bộ xã hội; là để khẳng định tư tưởng rất nổi bật của Chủ tịch Hồ Chí Minh “dân chủ là bản chất của xã hội ta”. Bác Hồ đã rất nhiều lần nói “xã hội ta là xã hội dân chủ”. Đặc trưng thứ hai, có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Đặc trưng này đã được xác định từ Đại hội X và được khẳng định trong Cương lĩnh 2011 thể hiện nhận thức của Đảng ta về vai trò rất quan trọng của Nhà nước trong đời sống xã hội. Trong quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp có khái niệm “chế độ quản lý”. Trong chế độ quản lý đó có ý nghĩa là phát huy vai trò tham gia quản lý của nhân dân, đồng thời rất coi trọng vai trò quản lý của nhà nước. Đưa Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân thành một đặc trưng của mô hình là đề cao vai trò, trách nhiệm của Nhà nước trước nhân dân. Nhà nước pháp quyền ấy vừa là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân nhưng đồng thời do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Nó khác với Nhà nước pháp quyền tư bản chủ nghĩa. Đưa đặc trưng này thành một đặc trưng trong mô hình CNXH còn có ý nghĩa khẳng định phương thức lãnh đạo của Đảng. Đảng lãnh đạo đất nước, lãnh đạo toàn xã hội bằng nhiều phương thức, trong đó rất quan trọng là Đảng lãnh đạo bằng Nhà nước, thông qua Nhà nước.
Như vậy đến Cương lĩnh 2011 đặc trưng mô hình CNXH đã được xây dựng thành một hệ thống gồm tám đặc trưng cơ bản. Tám đặc trưng ấy hình thành một chỉnh thể bổ sung lẫn nhau, hòa quyện với nhau để trở thành bản chất của CNXH. Có đồng chí nói xem ra những đặc trưng này không khác gì mấy với các nước tư bản chủ nghĩa, họ cũng nói thế này, thế kia. So sánh mô hình không đơn giản là so sánh từng thành tố mô hình mà phải so sánh tổng thể hệ thống các nhân tố đó. Trong tám đặc trưng của mô hình CNXH của chúng ta, đặc trưng nhân dân làm chủ, đặc trưng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo là những đặc trưng rất quan trọng. Nó kết hợp với nhân tố khác, nó chế định và quy định các nhân tố khác, phản ánh thành một bản chất, một trạng thái riêng của chế độ XHCN của chúng ta.
Cương lĩnh 2011 xác định mục tiêu tổng quát đến khi kết thúc thời kỳ quá độ và mục tiêu phấn đấu của chúng ta đến giữa thế kỷ XXI. Về mục tiêu tổng quát, cơ bản Cương lĩnh 2011 giữ nội dung Cương lĩnh 1991, nhưng có điều chỉnh, bổ sung một số từ ngữ. Những từ ngữ này thể hiện một quan niệm.
Mục tiêu được diễn đạt như sau: “Cho đến khi kết thúc thời kỳ quá độ chúng ta xây dựng được (Trong Cương lĩnh 1991 là “xây dựng xong”) về cơ bả nền tảng kinh tế của CNXH”. “Xong” và “được” là 2 cấp độ khác nhau. Trong Cương lĩnh 1991 dùng khái niệm “xây dựng xong cơ sở kinh tế”, Cương lĩnh 2011 “xây dựng cơ bản nền tảng kinh tế”. “Nền tảng kinh tế” cao hơn, rộng hơn “cơ sở kinh tế”.
Cương lĩnh 1991 viết: “Với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp tạo cơ sở nước ta trở thành một nước XHCN ngày càng phồn vinh”. Trong Cương lĩnh 1991 không có 2 từ “hạnh phúc”. Đến Cương lĩnh 2011 bổ sung thêm “phồn vinh, hạnh phúc”. Cái quan trọng nó nằm ở từ “hạnh phúc”. Quốc hiệu của chúng ta là “độc lập, tự do, hạnh phúc”. Toàn bộ các văn kiện của chúng ta đặt vấn đề con người phải trở thành trung tâm của chiến lược phát triển. Phồn vinh có thể rất nhiều nước phồn vinh, nhưng không phải quốc gia phồn vinh nào cũng có hạnh phúc. Hạnh phúc phản ánh bản chất của chế độ xã hội. Đấy là mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ.
Về mục tiêu từ nay đến thế kỷ XXI tức là khoảng năm 2045 khi Nhà nước cách mạng của chúng ta tròn 100 năm thì chúng ta phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại theo định hướng XHCN. Đó là cái đích phải đến của quá trình CNH, HĐH; là quá trình giải quyết về cơ bản các mối quan hệ giữa hạ tầng cơ sở và kiến trúc thượng tầng, giữa lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp, giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Chúng ta sẽ tiếp tục nghiên cứu để định lượng hóa, cụ thể hóa các tiêu chí về một nước công nghiệp hiện đại theo định hướng XHCN.
Những nội dung về đặc trưng, về mô hình, các định hướng lớn cũng là phác những nét khái quát về mục tiêu xây dựng một nước công nghiệp hiện đại theo định hướng XHCN. Đây còn là vấn đề “treo” về mặt lý luận, cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu để cụ thể hóa hơn, nó là mục tiêu thể hiện một tư duy nhất quán của chúng ta. Khi chúng ta nói từ nay đến năm 2015 xây dựng nền tảng để trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại; đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, chính là từng bước chuẩn bị để đến giữa thế kỷ XXI trở thành một nước công nghiệp hiện đại theo định hướng XHCN.
Muốn thực hiện được hai mục tiêu trên phải xây dựng, cụ thể hóa một bước thành các phương hướng mà chúng ta phấn đấu xây dựng. Trong Cương lĩnh 1991 xác định 7 phương hướng cơ bản: (1) Xây dựng Nhà nước XHCN; (2) Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại; (3) Thiết lập từng bước quan hệ sản xuất XHCN, phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước; (4) Tiến hành cách mạng XHCN trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa; (5) Thực hiện đại đoàn kết dân tộc, chính sách đối ngoại hòa bình, hợp tác, hữu nghị; (6) Xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN; (7) Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Đến Cương lĩnh 2011, chúng ta sắp xếp lại trật tự, bổ sung thêm nội dung của từng phương hướng, tách vấn đề đối ngoại, quan hệ quốc tế thành một phương hướng riêng.
Phương hướng thứ nhất, bổ sung như sau: chúng ta không dùng khái niệm “công nghiệp hoá theo hướng hiện đại” như Cương lĩnh 1991 mà dùng khái niệm “đẩy mạnh CNH, HĐH” gắn với 2 vế sau mà Cương lĩnh 1991 chưa có: gắn với phát triển kinh tế tri thức, gắn với bảo vệ tài nguyên môi trường.
Phương hướng thứ 2 chúng ta nói gọn lại là phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Cương lĩnh 1991 viết dài: “phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước”.
Phương hướng thứ 3, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Cương lĩnh 2011 bổ sung xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội- những nội dung rất mới phản ánh bước tiến trên con đường xây dựng CNXH ở nước ta.
Phương hướng thứ 4, bảo vệ vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, đồng thời chăm lo trật tự, an toàn xã hội. Trong xã hội hiện đại, các yếu tố an ninh phi truyền thống, các loại tội phạm xuyên quốc gia đang trở thành vấn đề toàn cầu, cho nên khái niệm “bảo vệ Tổ quốc” bên cạnh quốc phòng, an ninh còn có vấn đề cực kỳ quan trọng là “trật tự, an toàn xã hội”.
Phương hướng thứ 5 nói rõ hơn, đầy đủ hơn về đối ngoại: Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế là cái rất mới. Trước đây chỉ có một câu là “mở rộng quan hệ với nước ngoài”.
Phương hướng thứ 6 là xây dựng một nền dân chủ XHCN, thực hiện đại đoàn kết dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất. Trong Cương lĩnh 1991 vấn đề dân chủ XHCN mới được đề cập bước đầu, nhấn mạnh chủ yếu là vấn đề đoàn kết đến Cương lĩnh 2011 đưa vấn đề dân chủ XHCN lên trên gắn với vấn đề đại đoàn kết dân tộc và khẳng định vai trò của Mặt trận Tổ quốc.
Phương hướng thứ 7 là xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Phương hướng thứ 8 là xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Như vậy, tám phương hướng cơ bản nêu trên là những phương hướng chung nhất phải được tiến hành đồng bộ, triển khai đồng bộ. Thực hiện có kết quả tám phương hướng trên chính là điều kiện tiên quyết để đến giữa thế kỷ XXI nước ta có thể trở thành một nước công nghiệp hiện đại theo định hướng XHCN và đến khi kết thúc thời kỳ quá độ nước ta xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của CNXH với kiến trúc thượng tầng phù hợp. Việc thực hiện các phương hướng trên không tách rời nhau mà tác động qua lại lẫn nhau tạo thành chất lượng và hiệu quả của quá trình phát triển trong đó có các mối quan hệ lớn mà chúng ta cần nhận thức cho đúng và giải quyết cho hiệu quả. Nếu không quan tâm giải quyết đúng tám quan hệ này thì tám phương hướng nêu trên sẽ chệch hướng. Tám mối quan hệ lớn là: (1) Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; (2) Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; (3) Quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng XHCN; (4) Quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất XHCN; (5) Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; (6) Quan hệ giữa xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN; (7) Quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; (8) Quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản ly,á nhân dân làm chủ.
Nhận thức và giải quyết một cách khoa học, biện chứng, tránh phiến diện, cục bộ, chủ quan, duy ý chí. Tám mối quan hệ này rất quan trọng. Ví dụ, ổn định, đổi mới, phát triển, không cẩn thận, chỉ lo ổn định mà không chú ý đổi mới để phát triển thì sẽ trì trệ, ngược lại, nếu nôn nóng làm tất cả cho phát triển mà không chú ý giữ gìn ổn định sẽ phá vỡ phát triển. Từng cặp quan hệ này đòi hỏi một nhận thức rất sâu, giải quyết rất hiệu quả.
Phần thứ ba, những định hướng lớn về phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại
Chúng ta cần chú ý 3 điểm:
(1) Trong Cương lĩnh 1991 phần này được trình bày với tiêu đề những định hướng lớn về chính sách kinh tế, xã hội, quốc phòng - an ninh, đối ngoại. Đến Cương lĩnh 2011 điều chỉnh hai từ “chính sách” thành “phát triển” và bổ sung thêm một cụm từ “văn hoá” thành “những định hướng lớn về phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại”. Định hướng về phát triển, phạm vi định hướng mở rộng rất nhiều, định hướng chính sách cụ thể quá, nó bị khuôn quá, bó quá cho nên định hướng những chính sách trong Cương lĩnh 1991 nhiều nội dung được viết quá cụ thể. Đến Cương lĩnh 2011 định hướng phát triển, phạm vi định hướng rộng hơn, nên nội dung định hướng được trình bày bao quát hơn.
(2) Trong Cương lĩnh 1991 nội dung văn hóa không được đưa thành tiêu đề và được trình bày trong vấn đề xã hội, cho nên vấn đề văn hóa không được trình bày một cách đầy đủ và hệ thống, trong khi vấn đề văn hóa càng ngày càng trở nên vô cùng quan trọng. Bây giờ người ta nói, thời kỳ cạnh tranh về kinh tế đã và đang qua và cạnh tranh quan trọng nhất để khẳng định sức mạnh và độ bền vững của quốc gia là cạnh tranh văn hóa. Có người nói thế kỷ XXI là thế kỷ văn hóa. Trong Cương lĩnh 2011 nói đầy đủ hơn định hướng phát triển văn hóa. Trong Cương lĩnh 1991, nội dung về giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ được trình bày gắn với phát triển nguồn nhân lực, gắn với việc nâng cao trình độ kỹ thuật, công nghệ, trình độ sản xuất trong phần viết về định hướng chính sách kinh tế do vậy không trình bày một cách đầy đủ, hệ thống được những vấn đề của giáo dục - đào tạo, của khoa học - công nghệ. Cho nên đến Cương lĩnh 2011 chuyển nội dung giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ về phần văn hóa - xã hội, trình bày đầy đủ hơn, cặn kẽ hơn. Trong Cương lĩnh 1991, vấn đề an ninh được trình bày gắn với quốc phòng. Tiêu đề nói định hướng chính sách quốc phòng - an ninh là đúng vì quốc phòng và an ninh gắn với nhau. Nhưng nếu trình bày sự gắn ấy mà không thấy đặc thù của từng lĩnh vực thì không đầy đủ. Cương lĩnh 2011, vừa trình bày mối quan hệ khăng khít giữa quốc phòng và an ninh, vừa quan tâm thể hiện tính đặc thù của từng lĩnh vực. Đó là những điều chỉnh, đổi mới trong nhận thức, định hướng của Cương lĩnh 2011.
(3) Trong Cương lĩnh 1991, những nội dung định hướng chính sách đối với những lĩnh vực chủ yếu được phác họa trên cơ sở thực tiễn của mấy chục năm xây dựng CNXH trong điều kiện chiến tranh và trong thực tiễn 5 năm đầu còn rất chập chững, mới mẻ của sự nghiệp đổi mới. Cho nên nội dung định hướng trình bày trong Cương lĩnh 1991 tất yếu không tránh khỏi những hạn chế, chưa đầy đủ, chưa bao quát. Đến Cương lĩnh 2011 chúng ta có cả thực tiễn 25 năm đổi mới, thực tiễn 20 năm thực hiện Cương lĩnh 1991. Trên cơ sở tổng kết nghiêm túc thực tiễn ấy, có cơ sở để chúng ta xây dựng một cách chắc chắn hơn, đầy đủ hơn, toàn diện hơn những định hướng về các lĩnh vực:
Về định hướng phát triển kinh tế, chúng ta tiếp tục phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN với nhiều hình thức sở hữu, với nhiều thành phần kinh tế, với nhiều tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối. Cương lĩnh 2011 phân tích rõ các thành phần kinh tế có tư cách pháp nhân và tính chất của nó, vị trí, vai trò của từng thành phần kinh tế. Kinh tế Nhà nước lâu dài vẫn giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể càng ngày càng phát triển và kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể càng ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Có đồng chí nói kinh tế tập thể đang rất khó khăn, cùng với kinh tế Nhà nước nền tảng thế nào được? Chúng ta nhìn 30 năm nữa kinh tế tập thể không đơn giản như lâu nay chúng ta nghĩ. Nó là sự phát triển tự thân. Trình độ phát triển kinh tế lên, nhu cầu hợp tác trở thành nhu cầu khách quan cho nên thành phần kinh tế tập thể sẽ càng ngày càng phát triển theo quy luật phát triển khách quan của kinh tế, không tùy thuộc vào ý muốn chủ quan. Khẳng định kinh tế tư nhân là một trong những động lực; khẳng định chủ trương khuyến khích phát triển thành phần kinh tế có vốn đầu tư của nước ngoài và đặc biệt nhấn mạnh các tiềm năng và triển vọng của một loại hình tổ chức rất đặc biệt đó là các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng, ngày càng phát triển.
Về thể chế kinh tế thị trường, về chế độ quản lý, về quan hệ phân phối được định hướng rất rõ. Trong quan hệ phân phối lần này, có quan điểm đáng quan tâm là ngoài điểm nhấn phân phối theo lao động, phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực, còn phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, xác định rõ hơn trách nhiệm của Nhà nước trong việc điều tiết phân phối.
Trong phần định hướng về kinh tế có những định hướng quan trọng về cơ cấu. Cơ cấu ngành thế nào? Vùng thế nào? Phát triển theo phương châm nào? Nhấn mạnh phương châm phải xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ song song với phương châm chủ động hội nhập quốc tế.
Về định hướng phát triển văn hóa, xã hội và bảo vệ môi trường, phần này khá phong phú và toàn diện, đề cập đến sáu nội dung định hướng: Định hướng về văn hóa thì kế thừa tư tưởng Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; kế thừa tư tưởng của Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị về tiếp tục phát triển văn học - nghệ thuật trước yêu cầu mới và những quan điểm, chủ trương phát triển báo chí cách mạng đã thể hiện trong Nghị quyết Đại hội X, những quan điểm được thể hiện trong Nghị quyết Trung ương về công tác tư tưởng, lý luận, báo chí trước yêu cầu mới được thể hiện đầy đủ trong định hướng này.
Định hướng về phát triển con người, trong phần này Cương lĩnh 1991 chưa có điều kiện trình bày nhiều, trong Cương lĩnh 2011 phần viết về con người rất đậm, viết về vị trí của con người - trung tâm chiến lược phát triển, vừa là chủ thể phát triển. Nói về nguyên tắc tôn trọng quyền con người gắn với quyền lợi của dân tộc, đất nước, quyền làm chủ của nhân dân. Chúng ta đặt vấn đề nhân quyền, quyền con người thành một vấn đề rất lớn, nhưng chúng ta kiên quyết phản bác quan niệm tuyệt đối hóa quyền con người, đặt quyền con người cao hơn chủ quyền quốc gia, đặt con người cao hơn xã hội, cao hơn cộng đồng, một mặt chúng ta coi trọng, nhấn mạnh, tôn trọng bảo vệ quyền con người, nhưng gắn quyền con người với quyền của dân tộc, quyền của quốc gia và quyền làm chủ của nhân dân. Đó là những định hướng hết sức căn bản. Chúng ta đưa ra chuẩn mực con người Việt Nam, chúng ta phấn đấu xây dựng con người trong thời kỳ mới theo các chuẩn mực: yêu nước; có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân; có tri thức, lao động giỏi; sống có văn hóa, nghĩa tình; có tinh thần quốc tế trong sáng.
Về định hướng phát triển giáo dục - đào tạo, Cương lĩnh nêu sứ mệnh, vị trí của giáo dục - đào tạo; nhấn mạnh phải đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục; phải nâng cao chất lượng giáo dục theo phương châm: chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hóa, dân chủ hóa, hội nhập quốc tế. Phải xây dựng một xã hội học tập để đảm bảo công dân có quyền học tập suốt đời.
Định hướng phát triển khoa học - công nghệ, Cương lĩnh 2011 nhấn mạnh vị trí then chốt của khoa học - công nghệ trong phát triển lực lượng sản xuất, trong nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Không chỉ gắn phát triển khoa học - công nghệ với phục vụ CNH, HĐH mà gắn phát triển khoa học - công nghệ với phát triển văn hóa và nâng cao dân trí. Bây giờ khoa học - công nghệ phát triển thế nào mà mê tín dị đoan ngày càng nặng hơn, văn hóa có biểu hiện xuống cấp, chưa đúng thiên chức, chưa phản ánh được sức mạnh và hiệu quả của khoa học - công nghệ. Nhấn mạnh việc phát triển đồng bộ nhiều lĩnh vực của khoa học - công nghệ, đồng bộ giữa khoa học - công nghệ với văn hóa, với dân trí, quan tâm đến việc tăng nhanh và sử dụng hiệu quả tiềm lực khoa học - công nghệ, coi trọng và ứng dụng hiệu quả các công nghệ tiên tiến trên thế giới, quan tâm đồng bộ cơ chế, chính sách để khuyến khích sáng tạo, sử dụng nhân tài và đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ.
Định hướng về phát triển môi trường trong Cương lĩnh 1991 được viết còn đơn giản. Chúng ta chưa thấm vấn đề môi trường. Hai mươi năm qua, chúng ta ngày càng thấm vấn đề môi trường, cho nên phần định hướng về môi trường trong Cương lĩnh 2011 viết khá đầy đủ, trong đó rất quan tâm những định hướng lớn: phát triển năng lượng sạch, sản xuất sạch, tiêu thụ sạch; coi trọng nghiên cứu, dự báo đồng thời chủ động thực hiện các giải pháp để ngăn chặn và thích ứng với biến đổi khí hậu và thảm họa của tự nhiên. Coi trọng bảo vệ, tái tạo và sử dụng hợp lý tài nguyên quốc gia. Nếu suy nghĩ, quán triệt sâu sắc, thực hiện đúng những định hướng này thì chúng ta không có sự cố đáng tiếc đã và còn đang xảy ra xung quanh vấn đề tài nguyên, môi trường.
Định hướng về chính sách xã hội và phát triển xã hội, được thể hiện rất đầy đủ và có bước phát triển mới. Cương lĩnh 1991 chỉ nói gắn phát triển kinh tế với tiến bộ. Đến Cương lĩnh 2011 đã đổi thành một hệ quan điểm là kết hợp chặt chẽ, hợp lý phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển, từng chính sách; gắn chủ trương làm giàu chính đáng với xóa đói giảm nghèo bền vững, hoàn thiện chủ trương phát triển đồng bộ, đa dạng về bảo hiểm và trợ cấp thành hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội.
Bổ sung vấn đề hạn chế tội phạm và giảm thiểu tác hại của tệ nạn xã hội, bảo đảm quy mô hợp lý, cân bằng giới tính và chất lượng dân số. Tiếp thu tinh thần của các Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương về xây dựng giai cấp công nhân, nông dân, trí thức, thanh niên, trong Cương lĩnh 2011 có định hướng xây dựng cộng đồng văn minh, đoàn kết, nhân ái, trong đó định hướng xây dựng giai cấp công nhân, nông dân, đội ngũ trí thức, đội ngũ doanh nhân.
Định hướng đào tạo thế hệ trẻ, thực hiện bình đẳng giới và hành động vì sự tiến bộ phụ nữ.
Định hướng đoàn kết, hỗ trợ đồng bào định cư ở nước ngoài.
Định hướng về chính sách bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ nhau giữa các dân tộc; tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo. Những định hướng trong chính sách xã hội và phát triển xã hội rộng hơn và đầy đủ hơn.
5. Phần thứ tư, hệ thống chính trị và vai trò lãnh đạo của Đảng, có 4 vấn đề chúng ta cần quan tâm:
(1) Hoàn thiện một bước khái niệm và định hướng xây dựng dân chủ XHCN. Trong Cương lĩnh 1991 viết đơn giản: Toàn bộ tổ chức hoạt động của hệ thống chính trị ở nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN. Đến Cương lĩnh 2011 khẳng định dứt khoát: dân chủ XHCN là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Một nhận thức rất cao về tầm quan trọng, vai trò của dân chủ XHCN, đồng thời thể hiện quyết tâm xây dựng và bảo vệ nền dân chủ XHCN trong thực tế và trong đời sống xã hội của đất nước, chăm lo quyền con người và quyền công dân; trình bày các phương thức làm chủ của nhân dân.
(2) Hoàn thiện định hướng lớn về xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, trong đó nhấn mạnh bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của chúng ta; nguyên tắc thiết kế và sử dụng quyền lực; phương thức vận hành của Nhà nước pháp quyền; quan hệ mật thiết với nhân dân; định hướng đấu tranh chống sự tha hóa của Nhà nước; định hướng về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền. Những vấn đề rất quan trọng liên quan đến vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền đã được trình bày thành những định hướng lớn của Cương lĩnh 2011.
(3) Làm rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng và nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân. Có thể nói, Cương lĩnh 2011 đã trình bày lần đầu tiên một cách hệ thống, đầy đủ và sâu sắc chức năng, nhiệm vụ của mặt trận và đoàn thể. Có 5 chức năng, nhiệm vụ lớn: (1) đại diện và bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân, chăm lo lợi ích của đoàn viên, hội viên; (2) thực hiện dân chủ và xây dựng xã hội lành mạnh; (3) tham gia xây dựng Đảng và Nhà nước; (4) giáo dục lý tưởng và đạo đức cách mạng; quyền và nghĩa vụ công dân; (5) tăng cường mối liên hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước. Năm chức năng, nhiệm vụ được trình bày thành hệ thống quan điểm có tính chất định hướng toàn bộ hoạt động của Mặt trận và hệ thống pháp luật.
(4) Bổ sung những nhận thức mới về Đảng và định hướng xây dựng Đảng. Trong Cương lĩnh 2011, bổ sung cách diễn đạt mới về Đảng trong đó thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa giai cấp và dân tộc, không vì đưa tính chất dân tộc vào mà hạ thấp vấn đề giai cấp, đó là thể hiện đặc thù có tính quy luật trong quá trình xây dựng và phát triển Đảng. Cương lĩnh 2011 khẳng định giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh, mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân; định hướng về xây dựng, chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng./.
--------------------------
(*) Lược trích bài giảng tại Hội nghị nghiên cứu, quán triệt Nghị quyết Đại hội XI của Đảng ngày 20/4/2011
GS.TS Phùng Hữu Phú
Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Lý luận TW
(Nguồn: Tạp chí Tuyên giáo, số 5.2011)